312

 

 

DLTA
(Bài được viết dựa theo tài liệu, tin tức thu thập trên đường đi và trí nhớ của tác giả)

 

Những người bạn đồng nghiệp của tôi đã lắc đầu, le lưỡi khi nghe nói tôi sẽ đi vacation ở Trung Âu trong cái thời điểm kinh tế suy thoái của nước Mỹ, khi đồng đô la đã mất dần giá trị.  Tôi cũng biết Âu Châu là miền đất gạo châu, củi quế, vật giá đắt gấp mấy lần bên Mỹ này, nhưng khi nhớ đến cái kinh nghiệm “đau thương” như kỳ đi tour Japan, tôi đã phải trả một giá đắt hơn gấp mấy lần vì cứ lần lữa, chờ đợi, nên lần này tôi đã… mạnh dạn mà đưa thẻ cho công ty AV “cà” tiếp. 
 
Ngày họp tour, bà giám đốc  AV đã thông báo là thời tiết Âu Châu năm nay lạ lắm, mưa nắng thất thường, nên bà con nhớ đem theo áo ấm, áo mưa và cả dù nữa để phòng thân.  Đoàn của tôi đi Trung Âu kỳ này cũng khá đông, ngoài một số người ở những tiểu bang xa như Seattle, Philadelphia, Florida, phần còn lại là dân cư miền Nam California.  

Ngày 8/7- 8/8  Los Angeles - Munich

Ba chiếc xe van nhỏ của công ty AV mướn để đưa khách hàng ra phi trường rời văn phòng AV khoảng năm giờ rưỡi chiều.  Ngày Chủ Nhật, ít xe cộ nên chúng tôi đến phi trường trong vòng một tiếng đồng hồ.  Check in xong xuôi chúng tôi kéo nhau lên lầu ngồi chờ đợi. 

Còn chỉ gần khoảng nửa tiếng nữa là đến giờ máy bay cất cánh mà tôi cũng không thấy có dấu hiệu gì là nhân viên ở quầy soát vé sửa soạn mở cửa cho chúng tôi vào.  Ngồi chờ thêm mười lăm phút nữa thì tôi thấy có một người từ phía bên trong hành lang chạy ra cầm microphone thông báo chuyến bay đi Heathrow sẽ cất cánh trễ hơn giờ đã định khoảng một tiếng đồng hồ, nhưng cô trấn an là quý khách cứ yên tâm, không lo trễ chuyến bay chuyển tiếp từ Heathrow sang Munich, vì phi công sẽ… tăng tốc lực để đến phi trường bên đó kịp giờ!?

Phi cơ lên cao chưa được bao lâu thì tôi đã muốn ngủ gà ngủ gật vì cũng đã gần mười một giờ rưỡi đêm, nhưng tôi vẫn phải ráng chống mắt lên… chờ vì các tiếp đãi viên hàng không đang sửa soạn dọn bữa ăn đầu tiên.  Bữa cơm nửa khuya trên không trung nấu bằng gạo Basmati ăn với càri gà, như món cơm của hãng hàng không Trung Đông!?  Như tôi đã nói nhiều lần, thức ăn trên máy bay hay đi du lịch không có gì đáng nói, nên tôi chỉ nhấm nháp làm vui.  Khách hàng nào muốn uống rượu thì được tặng một chai rượu đỏ El Muro Tempranillo Garnacha, rượu của Spain năm 2010.  Tôi không muốn uống rượu nhưng cũng xin một chai đem về làm kỷ niệm.   Ăn cơm xong, chắc tại uống thêm café nên tôi lại tỉnh như sáo, tôi ngồi theo dõi máy bay di chuyển trong Journey Map, việc tôi vẫn thường làm mỗi khi lên máy bay trước khi ru mình vào giấc ngủ.  Khi máy bay bay ngang qua Ashland thì tôi không còn mở mắt ra nổi nữa.  Tôi ngủ một giấc dài cho tới khi còn khoảng một giờ bay nữa đến Heathrow thì Thảo đánh thức tôi dậy rửa mặt để ăn một bữa ăn nhẹ có bánh muffin, oatmeal với nho khô và yaour.

Bốn giờ mười lăm phút chiều chúng tôi đến không phận phi trường Heathrow.  Cái phi trường này là trạm chuyển tiếp chính của hãng BA nên đông không thể tưởng.  Đã tới trễ giờ thì chớ, mà phi cơ của chúng tôi còn phải bay vòng vòng trên không trung đến hơn mười phút mới nhận được hiệu lịnh của đài kiểm soát cho đáp xuống.   Bởi thế nên vừa rời phi cơ là chúng tôi phải nhanh chóng chạy vì chẳng còn bao nhiêu thì giờ.  Hơn nữa, từ cái chỗ dừng chân này đến trạm chuyển tiếp cũng khá xa, chúng tôi phải xuống tận tầng hầm thứ ba, đi air tram qua bên phía đó, rồi phải chạy lên ba tầng lầu, vượt qua trạm kiểm soát mới tới được cổng đi Munich.  Tưởng là chỉ  bị khám xét sơ sơ thôi ở trạm chuyển tiếp nhưng không ngờ chúng tôi cũng phải lột áo, cởi giầy, tháo dây nịt ra để cho máy dò làm việc.  Những cái máy dò ở trạm kiểm soát này “khó chịu” thì thôi, đến những món phụ tùng trang điểm, kem bôi tay của tôi đựng trong bịch nylon màu xanh đỏ để trong cái túi xách tay chúng cũng chẳng thèm soi, nhân viên của trạm kiểm soát phải lục tung mấy cái túi xách này ra, bỏ đồ đạc vào trong mấy cái bao Ziploc trong veo của phi trường chúng mới chịu cho qua.  Mấy cái lon coke nhỏ xíu và chai rượu lưu niệm của chúng tôi lấy ở trên phi cơ cũng bị chúng liệt vào hạng “cấm chỉ” vì quá khổ (hơn 3 oz) nên đành phải nằm im ở trạm ngừng này. 

Tụ họp người xong xuôi là chúng tôi cùng nhau chạy thục mạng đến cổng 23 để đáp chuyến bay đi Munich.  Khi vừa đến cổng 20 thì đã thấy mấy hướng dẫn viên ở phi trường chạy ra đón tiếp, hối thúc, vì máy bay đi Munich sắp đóng cửa để sửa soạn lên đường.  Tôi vào chỗ ngồi của mình, chưa lấy lại được hơi thở thì phi công đã bắt đầu di chuyển ra phi đạo, nhưng rồi vì “traffic jam” nên nó lại đứng yên tại chỗ để chờ hiệu lịnh ra sân, mãi đến hai mươi phút sau, nó mới lò mò ra được tới đường bay chính.  Munich cách Heathrow chỉ chừng hai giờ bay, nên ngồi trò chuyện với nhau chỉ một lúc thôi là chúng tôi đã nghe lời kêu gọi kéo thẳng lại ghế ngồi, thắt chặt dây an toàn để phi cơ sẵn sàng đáp xuống.  Phi cơ nhỏ, nên khi đáp xuống phi trường Munich có vẻ hơi lao đao, tôi nghe tiếng bánh xe sắt nghiến trên sân xi măng rào rào như cán trên sỏi đá…   

Về tới khách sạn Holiday Inn Centre Munich đã gần mười giờ rưỡi đêm, vì người hướng dẫn đoàn còn phải chạy vòng vòng hai cái terminal để tìm mấy người bạn đồng hành của chúng tôi đến từ Seattle bị thất lạc.  Nhận chìa khóa phòng xong chúng tôi vào thẳng phòng ăn vì nhân viên phục vụ đang chờ đợi.  Giờ này đã quá giờ ăn tối, nên phòng ăn trống trải, chỉ có một đoàn tour chúng tôi nhẩn nha ngồi nếm thử những món ăn đặc thù của bữa tối đầu tiên trên xứ Đức. 

Đêm nay và đêm mai chúng tôi sẽ nghỉ ngơi tại khách sạn Holiday Inn City Centre.

Ngày 8/9 Hohenschwangau

Sáng hôm sau, khi đã ngủ thoải mái được một giấc dài và dùng bữa điểm tâm thịnh soạn chúng tôi như khỏe khoắn hơn ra.  Ngày hôm nay, chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc hành trình Trung Âu với chuyến viếng thăm Lâu Đài Tình Ái, Neuschwanstein Castle, một nơi chốn mà tôi đã từng mơ ước được đến viếng thăm, sau khi nhìn thấy tấm hình chụp toàn cảnh tòa lâu đài này trong sương mơ ở một buổi triển lãm ảnh nghệ thuật. 

1Lâu đài Neuschwanstein (theo lời trưởng Gà Lôi, người anh Hướng Đạo của Thảo đã nhận Munich làm quê hương hơn mấy chục năm nay), là một trong những lâu đài đẹp nhất và là địa điểm du lịch nổi tiếng của Đức.  Nó nằm cách Munich 120 kilometes, khoảng ba tiếng đồng hồ lái xe.  Lâu đài này do vua Ludwig II của xứ Bavaria cho xây dựng. Lâu đài Neuschwanstein nằm cheo leo trên ngọn núi đá lởm chởm, bao quanh là dãy Alpes hùng vĩ, hướng ra thung lũng Hohenschawangau, cạnh bên hồ Alpsee Schwangau. Lâu đài này còn được gọi là “Lâu Đài Cổ Tích” và được sử dụng làm hình mẫu để xây dựng lâu đài của công chúa Lọ Lem ở Disneyland.  Ban đầu, tên của tòa lâu đài này được đặt là New Hohenschwangau để phân biệt với lâu đài Hohenschwangau cũ ở cách đó không xa, nhưng đã nó được đặt tên lại là Neuschwainstein sau khi vua Ludwig II qua đời.

Đường đi đến lâu đài rất dễ thương, xe chạy dọc theo những lạch nước nhỏ, trong veo và những cánh đồng cỏ xanh ngút ngàn.  Lúc gần đến địa phận lâu đài thì phải lên núi nên đường đi có hơi ngoằn ngoèo một chút, nhưng mát dịu nhờ được che phủ bằng bóng mát những hàng cây xanh như con đường đi lên rừng Red Wood.  Lúc đến nơi, bác tài thả anh trưởng đoàn Việt Hùng xuống trạm mua vé rồi chạy thẳng vào bãi đậu xe. 

Chúng tôi rời xe, leo lên con dốc thoai thoải, lên tới chân lâu đài, tìm đường đi thăm… “lăng bác”.  Nhìn du khách xếp hàng rồng rắn mấy vòng bên ngoài “lăng” tôi muốn… nhịn, nhưng theo lời cảnh báo thì chỉ có một trạm ngừng ở bãi đậu xe này thôi nên tôi cũng phải đứng vào hàng.  Nhích lên được một khúc thì tôi nghe có tiếng thì thầm của du khách hỏi nhau… “có tiền lẻ không?”  tôi đã ngạc nhiên, chừng bước vào tới cửa, thấy du khách  lúi húi bỏ tiền giấy vào cái máy đổi tiền tôi mới hiểu ra là… muốn thăm “bác” cũng phải cần trả tiền vào cửa.     

Làm xong “bổn phận công dân” chúng tôi thoải mái lên tập trung ở khu vườn hoa để đợi anh Hùng đi mua vé về.  Vài phút sau anh đến cho biết là 4:50 chiều mới tới phiên đoàn chúng tôi vào lâu đài “tham quan”.  Trong mấy tiếng đồng hồ còn lại thì chúng tôi có thể đi lên thăm viếng lâu đài màu vàng, Hohenschwangau Castle, là nơi ông vua Ludwig II của Bavaria đã ở suốt thời thơ ấu trước khi ông dựng xây lâu đài cổ tích Neuschwanstein cho riêng mình.  Buổi trưa, ai muốn đi ăn thử xúc xích, uống bia Đức thì gặp nhau ở bên ngoài gift shop.  Ai không muốn ăn trưa thì cứ thong thả đi shopping, miễn là đến khoảng 2:30 chiều gặp lại ở bến xe shuttle để cùng nhau đi thăm viếng lâu đài. 2


Chúng tôi rủ nhau đi bộ lên lâu đài Hohenschwangau chụp hình làm kỷ niệm.  Đứng ở xa xa nhìn thì tòa lâu đài này không đến nỗi nào, nhưng khi đến gần, nhìn lối kiến trúc và màu mè tô điểm, thì tôi mới hiểu tại sao khi trưởng thành ông vua Ludwig II lại... chê, không muốn ở đó nữa. 

Buổi trưa, ăn uống xong xuôi, còn dư thì giờ nên chúng tôi tản bộ đến mấy cái gift shop ở cuối đường xem thử giá cả như thế nào.  Thật tình là Âu Châu đắt đỏ, vì món quà lưu niệm nào cũng vượt quá chỉ tiêu của tôi, một cái muỗng souvenir nho nhỏ (made in China) khoảng 18 Euro, mấy con búp bê bằng sứ “Puppet Love” cũng đến gần 200 Euro.  Mặc cho các bà, các cô trong đoàn tour của tôi “tận tình” mua sắm, tôi bỏ ra bên hông quán hàng “cóp” hình mấy bức tranh Lâu Đài Cổ Tích qua bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông đã được nhà họa sĩ nào đó vẽ lại thật sinh động. 

Chưa tới hai giờ rưỡi nhưng chúng tôi đã tụ họp đông đủ ở bến xe shuttle để đi lên lâu đài.  Nhưng xe shuttle chỉ chở khách lên có nửa đường thôi, nửa đường còn lại là du khách phải cuốc bộ.  Chúng tôi xuống xe, đi tà tà theo con đường dốc trải nhựa uốn lượn theo sườn núi dẫn vào cửa chính.  Lâu đài được xây ở trên chóp núi, nên từ khoảng không gian trống trải này chúng tôi có thể hít thở không khí trong lành, và ngắm nhìn toàn bộ cảnh đẹp tuyệt vời của v3ùng thung lũng. 

 

Trước khi đi nốt đoạn cuối vào trong khu vực lâu đài, chúng tôi rẽ sang bên cánh phải con đường để ngắm chiếc cầu treo Marienbrucke, bắc ngang qua thác nước chảy giữa hẻm núi Pollat hùng vĩ.  Anh Gà Lôi đã nói là chúng tôi phải nhất định len ra đến giữa cầu để có được tấm hình kỷ niệm với toàn thể lâu đài Neuschwanstein.  Anh nói, cầu ở một địa điểm rất cao, nên những ngày có sương mù đi qua cây cầu sẽ có cảm giác đi trong mây, ai mà có được một tấm hình “lang thang trên mây” này là… hết xẩy.  Trời hôm nay không có sương mù, nhưng được chụp hình với Lâu Đài Cổ Tích cũng là một kỷ niệm đáng nhớ rồi.  Tôi run run bước từ từ ra phía giữa cây cầu, không dám đưa mắt nhìn xuống dưới, mò mẫm vịn thành lan can chụp hình, mặc dù tôi đã được anh Gà trấn an từ trước là cây cầu mới này được làm bằng sắt, thay cho cây cầu gỗ đã cũ kỹ, nên cũng rất an toàn, và chính phủ Đức đã cho giăng lưới chắn dọc ngang dưới vực, phòng khi có kẻ chơi ngông muốn... đo lường chiều sâu hẻm núi.   

Đợi cho mọi người thỏa mãn với hình ảnh của mình rồi, anh Hùng ra lịnh dời chân.  Chúng tôi lại đi theo những con đường dốc đi ngược lên đỉnh núi.  Trời đang nắng đẹp bỗng dưng đổi sang màu xám xịt, gió lồng lộng thổi, rồi mưa lác đác rơi.  Tuy đã được bà giám đốc AV báo trước tiết trời thay đổi bất thường, nhưng buổi sáng khi xuống xe trời nắng ráo, nên chúng tôi bỏ dù, áo lại trên xe, nên bây giờ đ4ành phải dìu nhau đi trong mưa sa, gió táp.   

Cái tour thăm viếng lâu đài dài chỉ chừng 35 phút.  Chúng tôi được hướng dẫn đi vòng mấy tầng lầu để xem công trình kiến trúc vĩ đại của ông vua Ludwig II.   Trước khi mở cửa  vào đại sảnh, người hướng dẫn đoàn “tham quan” đã yêu cầu du khách cất hết máy ảnh, máy quay phim, vì họ không muốn chúng tôi ghi lại hình ảnh nào của tòa lâu đài ngoại trừ cảnh ở phía ngoài khuôn viên tòa lâu đài, vườn hoa và căn bếp của ông vua.  Cũng theo lời người này thì căn lầu hai bị bỏ trống vì không được hoàn tất nên chúng tôi sẽ bắt đầu từ lầu một, leo lên hết 63 bậc thang dài để lên đến lầu ba.  Chúng tôi duyệt qua đại sảnh, phòng thiết triều, phòng ăn, phòng ngủ, và cuối cùng là căn bếp vĩ đại của hoàng cung. 

Chúng tôi hoàn tất buổi “tham quan” nhanh chóng, trở ra bằng một cánh cửa ăn thông với gift shop.  Chỗ du lịch nào cũng vậy, cổng ra bao giờ cũng là một gift shop để du khách có thể mua quà lưu niệm.  Con đường về trời nắng ráo, nhưng chúng tôi phải cuốc bộ nguyên cả đoạn đường vì xe shuttle chỉ đưa khách đi lên.  Đúng ra thì chúng tôi có hai chọn lựa cho con đường đi xuống:  đi xe ngựa hoặc là đi bộ. Có vài người trong đoàn muốn đi xuống bằng xe ngựa cho biết nhưng khi ra đến bến xe rồi, nhìn lớp lớp người xếp hàng chờ đợi nên nản lòng vì không biết lúc nào sẽ đến lượt mình.  Thế nên chúng tôi tà tà xuống núi, hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ, với cỏ cây và những dòng suối nhỏ róc rách chảy bên đường.  

Khi chúng tôi trở về Munich đã hơn 7:30 tối.  Đêm nay, chúng tôi sẽ được ăn ở nhà hàng  Hofbrauhaus, một nhà hàng có món đặc sản của Đức là chân giò nướng, dọn ăn với khoai tây nghiền vò viên, và uống thử những cối beer nổi tiếng thế giới.   Nhà hàng cũng có chương trình ca nhạc giúp vui cho thực khách mà nam nữ ca nhạc sĩ đều mặc váy ngắn ngang tới đầu gối.  Khi tới nơi, Thảo gọi phone tìm anh chị Gà Lôi vì như lời hẹn thì anh chị sẽ lên đến nhà hàng này từ trước 7 giờ để chờ chúng tôi về.  Tội nghiệp, anh chị ở cách thành phố Munich tới 16 km nhưng cũng chịu khó đi mấy chuyến metro đến cùng ăn tối với chúng tôi đêm nay.

Món chân giò nướng đặc sản của nhà hàng này mới ăn cũng thấy ngon, cũng đậm đà như món thịt heo quay của người mình vậy, nhưng cái nào cái nấy to thù lù bằng cái bắp tay.  Tôi xẻ ăn được 1/3 chân giò là thấy ngán, vậy mà tôi nghe nói có người trong đoàn còn order thêm vài cái nữa…Tôi cũng có một ly bia nhưng nhỏ thôi, nên tôi mượn ly bia khổng lồ có pha nước cam của chị Gà Lôi để chụp hình chung với cái chân giò làm kỷ niệm.

Theo chương trình thì sau bữa ăn chúng tôi sẽ đi dạo chơi một vòng phố cổ Munich, quảng trường Marien Platz, nhưng thấy người nào trong đoàn của chúng tôi cũng thấm mệt sau một ngày cuốc bộ trong mưa và “say sỉn” với những ly bia nặng ký nên anh Hùng đề nghị chúng tôi về khách sạn dưỡng sức vì ngày mai chúng tôi còn phải dậy sớm để lên đường đi Salzburg. 

 

8/10 Munich - Salzburg

Chín giờ 15 phút sáng chúng tôi rời khách sạn đi Salzburg. Salzburg là thành phố lớn vào hàng thứ tư của Áo quốc, cách Munich khoảng 148 kms. Cái tên Salzburg có nghĩa đen là “Kinh Thành Muối”.  Cái tên nàsby được bắt nguồn từ thế kỷ thứ 8, sau khi những chuyến sà lan chở muối trên sông Salzach phải ngừng tại đây để đóng thuế lưu hành.  Salzburg cũng là nơi sinh của nhà soạn nhạc Wolfgang Amadeus Mozart, và cũng là nơi người ta đã chọn để quay bộ phim nổi tiếng The Sound of Music.

Những nước Châu Âu bây giờ không còn biên giới nữa, nên ông tài xế cho xe chạy thoải mái vì không cần ngừng lại để trình báo giấy tờ.  Trên xe bus, anh Hùng kể cho chúng tôi nghe trước chuyện cuộc đời của nhà soạn nhạc danh tiếng Mozart để chúng tôi khỏi lớ ngớ khi đến viếng thăm căn nhà thời thơ ấu của người nhạc sĩ này. 

Trên đường đi chúng tôi ghé ngang hãng làm đồ trang sức nổi tiếng Swarowski, nơi mơ ước của nhiều bà trong đoàn tour.  Đây là một khu du lịch nổi tiếng hấp dẫn khách du lịch tại nước Áo do tập đoàn Swarovski đầu tư xây dựng vào năm 1995 nhân kỷ kiệm 100 năm công ty được thành lập. Trước khi vào thăm thú những vòng vàng, nữ trang lấp lánh, chúng tôi không quên ngừng lại chụp hình đài phun nước độc đáo Swarovski Kristallwelten mang hình dáng một đầu người, nằm giữa khu vui chơi giải trí Swarovski Crystal World.   

Tôi cũng theo chân những người bạn đồng hành trong đoàn đi vòng vòng coi những món nữ trang lấp lánh dưới ánh đèn cho vui, vì quan niệm của tôi là không mua những món hàng khó có thể đổi trả, nhất là những món hàng đắt giá trên bước đường du lịch.  Chúng tôi chóa mắt chiêm ngưỡng con rồng đỏ được kết thành bằng hàng ngàn viên hồng ngọc sáng chói, mang một giá thành kinh khủng… 15 ngàn Euro. 

Chúng tôi đến Salzburg khoảng 2 giờ chiều.  Xe bus ngừng tại chỗ hẹn để đón người  local tour guide. Chúng tôi bắt đầu City Tour của Salzburg v5ới vườn hoa Mirabell, nơi mà cuốn phim The Sound of Music đã được quay.  Kế tiếp, bà tour guide dẫn chúng tôi đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Mozart, một ngôi nhà nhỏ nằm trong khu phố thương mại cổ có những bảng hiệu tên tiệm mang những hình thù rất dễ thương.  Chúng tôi chỉ được duyệt qua, ngắm nghía những vật kỷ niệm như cây đàn violin, đàn piano và những hình ảnh của ngày Mozart còn nhỏ chứ không được phép chụp hình bên trong ngôi nhà có những kỷ vật của người nhạc sĩ.   

Sau khi viếng thăm căn nhà của Mozart, chúng tôi đi từ từ ra quảng trường Mozart, để chụp hình với bức tượng của người nhạc sĩ tài ba.  Chúng tôi cũng không quên ghé vào một quán café nhỏ gần quảng trường để nhâm nhi một miếng bánh ngọt cùng uống thử café đặc biệt của thành phố này.   Ly café espresso nho nhỏ, nhưng có đủ sức mạnh làm nhịp tim của những người không quen uống nhẩy loạn xạ cả lên.  Có thể vì thế nên bên cạnh những ly café thơm phức này, quán hàng đã dọn kèm theo 1 ly nước lạnh cho người thưởng thức uống ngay sau đó, chắc có tác dụng… làm giảm cường độ của café?

Buổi tối, chúng tôi đến tiệm K & K ở gần quảng trường Mozart để thử món ăn đặc sản của Vienna.  Có hai món cho chúng tôi chọn lựa: thịt bê tẩm bột chiên hay ravioli nấu với sauce cheese, soup nấm hay salad và món mouse tráng miệng.  Chúng tôi chia nhau mỗi người chọn ăn thử một thứ.  Thảo, chắc không mặn mà gì với món ravioli, nhưng sau khi thử một miếng bê chiên trong đĩa của tôi rồi thì chàng yên lặng trở về với món ăn của mình không một lời... than thở.  Tôi gỡ bỏ bớt những mảnh bột bao quanh miếng thịt rồi trệu trạo ngồi nhai miếng thịt “bê” chiên mỏng dính, dai nhách, chạnh nhớ đến những miếng bê thui thái mỏng chấm với nước tương Cự Đà và gừng cay thái chỉ ở bên nhà, mà thấy tội nghiệp cho cái gu ăn của người bản xứ.  Sau này, về nhà tìm hiểu trên mạng, tôi mới biết cái món cốt lết bê đập mỏng, tẩm bột trứng chiên bơ này tên là Wiener Schnitzel, một món ăn truyền thống nổi tiếng của Vienna.

Ăn xong, cũng đã gần 10 giờ đêm, chúng tôi đi bộ vòng qua mấy quãng đường thành phố, chụp hình Salzburg rực rỡ dưới ánh đèn, rồi tản bộ ra xe bus về hotel.  Đêm nay, chúng tôi sẽ nghỉ ngơi tại khách sạn Radison Blue. 

 

8/11 Salzburg - Vienna 

6

Chín giờ sáng hôm nay chúng tôi rời Salzburg, vượt đoạn đường 295 kms để đến Vienna.  Con đường đến Vienna thật là bình yên với những cánh đồng xanh ngắt trải dài tận đến chân trời.  Trước khi vào Vienna, chúng tôi đã được hướng dẫn đến nghĩa trang  Zentralfrielhof, một nghĩa trang lớn nhất và quan trọng nhất ở ngoại ô Vienna, đã thu hút rất nhiều du khách vì có những ngôi mộ rất to lớn, đồ sộ và những ngôi mộ có kiến trúc lạ lẫm. 

Tôi vốn bổn mạng cầm tinh… con thỏ đế, nên không thích những cuộc du ngoạn thăm viếng nghĩa trang này một chút nào.  Hồi sang vùng New Orleans chơi, tôi cũng đã được giới thiệu về những cái tour “tham quan” đặc biệt này và tôi cũng đã lẩn tránh, mặc dù Thảo đã cố nài nỉ là…đi xem cho biết để về có chuyện kể lại cho người khác nghe.
 
7Nhưng lần này thì quả là tôi không có được sự chọn lựa, vì xe bus cứ lừng lững tiến vào bãi đậu xe ngoài vòng rào nghĩa trang.  Đúng ra thì anh Hùng có nói trước là ai không thích vào thăm nghĩa trang thì cứ ở trên xe bus mà nghỉ ngơi, chờ đợi.  Nhưng khi đến cửa nghĩa trang thì anh lại chỉ vào hai tòa nhà to tướng ở ngay cổng chính mà bảo toà nhà bên trái là mộ của ông vua Franz Joseph I, chồng của công chúa Sisi (Elisabeth of Austria), còn bên phải là của Doktor Karl Lveger.  Tôi nhìn hai ngôi mộ sừng sững đứng hai bên cổng vào mà chột dạ, thầm nghĩ, lỡ một trong hai ông này “rắn mắt” rời khỏi lăng  đi thăm viếng dân gian, rồi “tình cờ” lên xe bus hỏi thăm tôi thì sao, nên tôi cũng phải đành làm gan đi xuống cùng với mọi người.

Nhờ đi với đám đông nên tôi cũng thấy bớt sợ nên tôi cũng dám đi vòng vòng để nhìn ngắm và chụp hình những ngôi mộ của Beethoven, Schubert, Strauss, Brahms... đem về “trưng bày” với bài viết của mình. Tôi cũng chụp hình trụ đài có hình của Mozart nằm ở trung tâm nơi chôn cất những nhà soạn nhạc đại tài của Áo, nhưng theo theo lời giải thích của anh Hùng thì đó chỉ là trụ đài tưởng niệm, chứ Mozart không được chôn ở nơi này.    

Xe về đến khách sạn Arcotel Kaiserwasser đã hơn 3 giờ chiều.  Chúng tôi sẽ nghỉ tại đây đêm nay và đêm mai.  Nhận phòng xong, chúng tôi có được vài tiếng đồng hồ để nghỉ ngơi trước khi lại tụ họp với nhau dưới đại sảnh để cùng nhau đi ăn tối.

Đêm nay, chúng tôi được ăn cơm Việt Nam ở tiệm SG, một quán hàng đắt khách ở giữa lòng phố Vienna.  Quán nhỏ nên chúng tôi phải chia thành những nhóm nhỏ từ 4 tới 6 người ngồi rải rác đó đây.   Vì đã được order trước nên thức ăn được dọn lên nhanh chóng, lẹ làng sau khi chúng tôi an tọa.  Mấy hôm nay ăn toàn món “đặc sản bản xứ” đã ngán quá chừng, nên mắt tôi sáng ngời khi nhìn thấy cơm trắng, rau muống xào, canh chua, cá kho tộ, thịt bò xào khóm...  Tôi gắp mấy cọng rau muống xào vào chén của mình, lòng thầm ước có một người nào đó ngồi chung bàn tuyên bố... dị ứng với món rau muống xào để tôi có cơ hội gắp thêm vài gắp nữa!  Tôi khều qua món xào bò... toàn khóm, tìm 1 miếng thịt bò xào, nhấm nháp xem thịt con bò này có… mềm hơn thịt con bê hôm trước hay không.  Chúng tôi khách sáo nhường nhau món cá kho tộ, có mùi vị của những khứa cá hấp chan nước màu.  Chúng tôi húp sì sụp những muỗng canh chua, thì thầm bảo nhau tha hương mà… ngộ được thức ăn như vầy thì cũng… ấm lòng lắm rồi. 

Ăn cơm xong, chúng tôi theo anh Hùng đi loanh quanh khu thương mại sầm uất của thành phố vài vòng, rồi ghé sang thăm tòa đô sảnh.  Buổi tối mà du khách đi dạo chơi cũng tấp nập quá chừng.  Chúng tôi ngừng ở giữa quảng trường tòa đô sảnh nhìn người dân bản xứ đang khiêu vũ ngoài trời một lúc rồi cùng nhau lên metro đi về khách sạn.  Bác tài xế của chúng tôi đã phải cho xe về bến từ chập tối, vì luật Âu Châu không cho phép tài xế chạy quá 12 tiếng đồng hồ mỗi ngày.  Xe metro của Vienna cũ kỹ, chạy thua xe metro ở Los Angeles, vậy mà một khoảng đường ngăn ngắn cũng đến gần 2 Euro.

 

8/12 Vienna

8Ngày hôm nay chúng tôi sẽ gặp Lisa, người local tour guide, để đi city tour ở Vienna.  Tám giờ 45 phút sáng, chúng tôi đã tề tựu đầy đủ ở lobby, để sửa soạn lên đường.  Xe bus chạy qua những con đường thành phố, ngang qua nhà của tác giả bản nhạc nổi tiếng Danube Blue.  Chúng tôi ngừng lại một ít lâu ở Museum of Natualralish chụp hình với bức tượng của nữ hoàng Maria Theresa.  Ở đây, tôi gặp một người đã hóa trang làm Mozart, đứng ở một góc đường dẫn vào trụ đài có tượng bà nữ hoàng Maria Theresa, để chụp hình với du khách, kiếm tiền.  Chúng tôi cũng bắt chước những người khách đi ngoạn cảnh, bỏ những đồng tiền kẽm vào cái thùng dưới chân ông ta, rồi thay phiên nhau chụp hình lưu niệm. 

Nơi chúng tôi dừng chân kế tiếp là Cung Điện Mùa Hè Schonburnn và vườn ngự uyển của nữ hoàng Maria Theresa.  Schonbrunn, là một trong những cung điện lộng lẫy nhất trên thế giới có tới 1441 phòng.   Nghe nói đây từng là nơi ở của nhiều hoàng đế Áo.  Cung điện mùa hè này rộng quá, chắc phải mất mấy ngày mới đi thăm viếng hết .  Khu vườn của nữ hoàng Maria Theresa thập đẹp, nhưng quá bát ngát, mà thời gian không cho phép chúng tôi nấn ná, dạo chơi, nên chúng tôi chỉ có thể đứng ở một góc sân, chụp toàn thể khu vườn lộng lẫy đủ sắc màu, đem về nhà ngắm kỹ lại sau, rồi phải chạy theo tour guide vào thăm viếng tòa lâu đài.  Tôi thì vừa được ngắm tòa lâu đài hôm trước rồi nên cũng không hăng hái xếp hàng rồng rắn đi thăm lâu đài nhưng vì tò mò, tôi cũng đi theo đoàn để lên căn phòng có trưng bày bức hình độc đáo của ông hoàng Frances, ông nội của thái tử Franz Joseph (chồng của công chúa Sisi).  Nghe nói, bức hình đặc biệt này khá nổi tiếng vì có vẽ một cái chân trái biết di chuyển…  bước theo hướng người đi chiêm ngưỡng ông hoàng.  Tôi cũng bắt chước những người đi viếng thăm thử quay qua quay lại theo nhiều phương hướng, và cũng không làm sao hiểu nổi tại sao cái chân này cũng nhanh chóng bước theo tôi?!

9
Buổi trưa, sau khi chia tay với người hướng dẫn ở địa phương rồi chúng tôi trở lại quảng trường St Sephen để uống café ăn bánh ngọt ở một tiệm café mà anh Hùng đã quảng cáo là ngon nhất phố cổ.  Chúng tôi sẽ có một vài tiếng đồng hồ thư giãn ở tại nơi này.  Sau bữa ăn, một nhóm nhỏ trong đoàn tour của tôi đã tìm đường đến thăm viếng ngôi mộ của nàng công chúa Sisi, cũng ở gần đâu đó.  Nhóm còn lại thì tản mác khắp nơi trong khu shopping thành phố để góp phần… hỗ trợ kinh tế Châu Âu.  Chừng tập họp ra về, người nào trong đoàn không ít thì nhiều cũng có một vài túi hàng trong tay, ai nấy đều nói cười  hỉ hả. 

Đêm nay, chúng tôi ăn tối ở khách sạn, để kịp giờ cho những người thích âm nhạc cổ điển trong đoàn có cơ hội đi nghe hòa nhạc tại Vienna State Opera vào lúc 7 giờ.  Trong ngày họp tour bà giám đốc AV đã có nói trước, nếu ai muốn đi nghe nhạc thì nên sửa soạn đem quần áo đẹp theo, vì đây là cơ hội duy nhất cho các ông bà trong đoàn tour chưng diện. Thế nên khi tôi bước xuống phòng ăn thì đã thấy quí bà trong đoàn tour của tôi tươi mát với áo đầm, giầy cao gót, ví xách, khăn choàng đủ màu sắc đẹp đẽ khác hẳn với những ngày chạy tour với quần jean, áo pull.  Mấy ông cũng tươm tất không kém mấy bà, người nào không mặc veston thì ít nhất cũng có một cái cà vạt hay khăn quàng cổ.  Hai bà bạn đồng hành ngồi cùng bàn ăn với tôi đêm nay lên tiếng rủ rê tôi cùng đi nghe nhạc cho vui, vì nghe anh Hùng nói là có thể mua thêm được vài vé nữa vào giờ chót.  Chẳng lẽ tôi thành thật khai báo với hai bà là cái loại nhạc cổ điển sang trọng này không mấy thích hợp với lỗ tai nhà quê của tôi, nên tôi không nỡ bỏ 100 Euro để mua vé vô rạp… ngủ, hay là để đứng chụp hình trước cổng nhà hát lớn đem về khoe, thành tôi đành phải nhẹ nhàng giải thích lý do tôi không thể tháp tùng hai bà đi xem hát được vì từ lúc ở nhà tôi đã không dự tính đi nên tôi chẳng đem theo quần áo vía, thành bây giờ có muNfốn đổi ý thì cũng không tìm ra cái gì ra hồn để mặc. 

 

Tôi, Thảo và một vài người nữa trong đoàn không đi nghe hòa nhạc, nhẩn nha ngồi ăn.  Ăn xong, không biết làm gì cho hết buổi tối chúng tôi rủ nhau ra ngắm cảnh giòng sông xanh vì nghe nói là khúc sông Danube Blue này đẹp nhất là ở Vienna.  Giờ này, chắc còn sớm hay mọi người đang quay quần bên gia đình trong bữa cơm tối ấm cúng, nên những quán hàng chung quanh bờsông chỉ lèo tèo có vài ba người khách?!  Đi lang thang một lúc thì hai người trong nhóm nhỏ của tôi kêu mỏi nên bỏ về phòng trước.  Còn lại bốn người chúng tôi rủ nhau lấy metro đi trở lại quảng trường St Stephen xem buổi tối ở đó có gì vui lạ hơn không.   

Quảng trường St Stephen là một địa điểm “tham quan” nên buổi tối thật là vui, tấp nập những người là người.  Bốn người chúng tôi đi dạo chơi một lúc nhìn du khách tấp nập mua sắm rồi cũng kéo ghế ngồi xuống 1 quán café vỉa hè trong lòng con phố chính vừa uống café vừa nhìn ông đi qua bà đi lại.  Ngồi bên cạnh bàn chúng tôi là ba người bạn trẻ, trong số này có một người sinh trưởng ở Đức, và đang làm việc ở Vienna, còn hai người kia thì đang đi hưởng tuần trăng mật theo kiểu Tây ba lô, ghé sang đây thăm bạn.  Nghe nói chúng tôi đã bắt đầu chuyến du ngoạn Âu Châu từ Munich, nên anh chàng người Đức tưởng như đã “ngộ được cố tri” nên đã rủ rê chúng tôi chụp với bọn họ một tấm hình làm kỷ niệm.  

 

 

8/13 Vienna – Mestre

Ngày hôm nay chúng tôi rời Vienna đi Venice.  Tám giờ sáng chúng tôi rời khách sạn, vì quãng đường hôm nay cũng khá dài, gần 600 kms, và cứ hai tiếng đồng hồ thì bác tài xế phải cho xe nghỉ 20 phút, cũng để cho bà con mình có thì giờ đi... giải tỏa bầu tâm sự.  Chúng tôi lại lục túi tìm tiền cắc, qua mấy ngày đi tour Âu Châu thì chúng tôi đã có kinh nghiệm, hầu như ở khắp mọi nơi trên những nước Âu Châu tôi sẽ đi qua, muốn đi xả nước, rửa tay đều phải nộp ít nhiều tiền… phục dịch. 

Đêm nay và đêm mai, chúng tôi sẽ nghỉ ngơi tại khác sạn NH Laguna Palace, ở thành phố Mestre, ngoại ô Venice.  Khi xe đi dần vào thành phố tôi cảm thấy hơi buồn vì Mestre quạnh hiu không có gì hấp dẫn.  Cái khách sạn NH Laguna Palace này cũng cũ kỹ, nằm lạc lõng giữa lòng con phố.   Đến nơi, chúng tôi nhận phòng xong, nghỉ ngơi một lúc rồi xuống ăn tối ở khách sạn.  Những món ăn chính như cá và lasagna đêm nay không có gì đặc biệt, mang tiếng là buffet “all you can eat” mà Thảo mới đứng dậy để lấy miếng cá thứ 2 thì… đã hết thức ăn rồi.  Tôi muốn tìm trái cây ăn tráng miệng cho đỡ buồn thì cũng chẳng thấy ở đâu.  Cũng may, AV đã toan tính phần desert, nên đã đặt làm 3 cái bánh cateau to tướng, chủ yếu là mừng sinh nhật và kỷ niệm trăng mật cho 3 người ở trong đoàn, nên chúng tôi cũng có được một món tráng miệng ngọt ngào. 

Bữa ăn tối kết thúc nhanh chóng.  Thành phố nhỏ nên không có chỗ rong chơi, và nghe nói giờ này cũng không có cả phương tiện giao thông để đưa chúng tôi đi qua đảo “thám thính”.  Tôi nghe nói có cô nhỏ mới nhập đoàn tour từ Venice, đến đây từ buổi sáng, đã phải đi bộ mất mấy tiếng đồng hồ để ra đến bến tàu. Thảo và tôi theo một nhóm nhỏ trong đoàn đi dạo, ngắm thành phố Mestre lúc lên đèn.  Chúng tôi rủ nhau đi vòng vòng những con đường chính chung quanh khách sạn tìm hiểu xem có chỗ nào vui như buổi tối ở Vienna không.  Nhưng đi được vài đoạn đường thiếu hẳn ánh đèn, nhìn thấy những hình ảnh vẽ ngoằn ngèo trên tường (graffiti) nên chúng tôi cũng thấy hơi ớn ớn nên rủ nhau vòng về. 

 

8/14 Venice 

    VN

Ngày hôm nay chúng tôi sẽ đi ngoạn du Venice.  9 giờ 40 sáng, xe bus đưa chúng tôi đến bến tàu Ferry Lido để qua Venice.  Xe ngừng ở bãi đậu nhưng chúng tôi phải chờ local tour guide của Ý đến mới được xuống, vì khắp mọi nơi ở trên thành phố nổi này đều được “kiểm soát” kỹ càng.  Trước khi hướng dẫn chúng tôi vào bến tàu bà tour guide có cảnh báo là “hãy canh chừng ví bóp của bạn, vì chính tôi đây đã hai lần bị cướp giật trong… nhà thờ”. 

Water taxi là phương tiện di chuyển duy nhất từ nơi này.  Cả đoàn chúng tôi chiếm hết 1 chiếc tàu.  Tàu lướt nhanh trên sóng, chỉ trong chớp mắt là chúng tôi ra tới đảo.  Venice không hổ danh là kinh thành nước, vì nhìn chung quanh thấy toàn nước là nước.  Cũng may, chúng tôi đến đây nhằm mùa khô ráo, chứ không thôi thì đã có dịp lội bì bõm trên quảng trường. 

Nơi đầu tiên chúng tôi viếng thăm ngày hôm nay là lâu đài Dodge, nơi có những bức họa nổi tiếng trên thế giới.  Cũng như những nơi khác, chúng tôi không được ghi lại hình ảnh viếng thăm, ngoại trừ một vài căn phòng giam giữ tù nhân khi xưa, hay khung cửa sổ nhà tù, nơi những người bị giam cầm trong gian nhà đá nhìn ra cây cầu than thở, để ước mơ một ngày được bước qua cầu. 

Sau đó thì chúng tôi được hướng dẫn đi thăm hãng làm thủy tinh, có những bộ ly tách với  cái giá bán khổng lồ lên tới vài ngàn Euro, vậy mà cũng có nhiều du khác đặt mua, gởi hàng về nước.  Nhắm không kham nổi những món quà xa xí này nên chúng tôi rủ nhau ra ngoài tìm cảnh chụp hình. Vừa bước ra ngoài cửa hãng, nhìn thấy một con ngựa được làm bằng thủy tinh màu xanh lá cây trong, có kích thước của một con ngựa thật, quá đẹp nên ai nấy tranh nhau đứng bên cạnh chụp hình với ngựa.  Chừng chụp đã đời rồi chúng tôi mới nhìn thấy tấm bảng “cấm chụp hình” được dựng ở phía sau đuôi con ngựa nên nhìn trước nhìn sau rồi rủ nhau nhanh chân rảo bước.  

gdBuổi trưa, chúng tôi được tự do đi vòng vòng kiếm món ăn trưa.  Anh Hùng giao hẹn nếu muốn đi xem nhà thờ St Mark thì trở lại tập họp trước cửa nhà thờ đúng 1:30 chiều, vì hôm nay rất đông du khách, nên họ đã giới hạn thời gian cho khách vào tham quan.  Nhưng đi vòng vòng một hồi thì chúng tôi cũng không biết ăn gì, bởi vì món ăn “to go” quanh đi, quẩn lại chỉ có bánh mì kẹp thịt.  Đang còn đứng lơ ngơ trước cửa tiệm bánh mì thì chúng tôi gặp nhóm bạn đồng hành có tâm hồn ăn uống rủ đi ăn thử Pizza làm ở Ý,  xem nó khác Pizza Ý làm ở Mỹ đã được biến đổi để hợp với khẩu vị người bản xứ ra sao.   Quán hàng đông, lại thêm không đủ người phục vụ nên chúng tôi phải ngồi chờ khá lâu, vậy mà lúc tính tiền, ngoài tiền “thuê chỗ ngồi” và tiền dịch vụ, họ còn dám đòi thêm tiền tips?!   Ăn xong, ra đến chỗ hẹn để đi viếng nhà thờ thì đã trễ, nhóm người đi viếng nhà thờ đã vào nhà thờ từ lâu.  Chúng tôi chỉ có đủ thì giờ đi vòng vòng quảng trường, ăn kem là đến giờ tập họp để đi dạo thành phố nước bằng gondola.

Ba giờ rưỡi chúng tôi gặp lại đoàn ở bến đò.  Những chiếc gondola màu đen nho nhỏ, nhanh chóng cập bến đón người.  Chúng tôi chia nhau 6 người lên 1 cái gondola, có giá khoảng chừng 100 Euro cho một chuyến đi dạo chừng 35 phút. Tôi nghe anh Hùng nói là phải nhờ ông tài xế xe bus mua giùm mới được rẻ như vậy, chứ không thôi phải mất 25 Euro cho mỗi đầu người, và nếu ai không quen thuộc thì có thể phải trả đến những 200 Euro cho mỗi con đò. 

Ngày xưa, nhìn những tấm bích chương quảng cáo về thành phố nước, với những chuyến đò đủ màu lượn quanh những con phố đầy hoa, có những người chèo đò thanh thản ngân nga những câu hát trữ tình, tôi đã ước mơ có một lần đến viếng Venice.  Nhưng khi bước xuống con đò đen đủi, chen chúc nhau len lỏi qua những bức tường nhà rêu phong cũ kỹ, trên những con lạch không sạch sẽ, hấp dẫn gì, và nhìn khuôn mặt những anh lái đò bặm trợn, luôn tay quạt nước cho đò mau cặp bờ để đón khách mới, thì ước mơ của tôi đã vụt tan biến.   Tôi ngồi thu lu trong khoang đò, nhìn ngắm mông lung, chờ giờ lên bến.

 

Chiều nay, chúng tôi sẽ đi ăn cơm hải sản ở trong thành phố nước rồi mới lên tàu về đất liền.  Trong lúc chờ đợi, chúng tôi rủ nhau đi mua vài món quà lưu niệm.  Tưởng là những quán hàng rong rải rác trên quảng trường, gần bến nước, có giá rẻ hơn trong phố nên chúng tôi ghé vào, nhưng sau đó thì chúng tôi mới biết là không nên “đụng chạm” gì với dân bán buôn ở những quán hàng này.  Chúng tôi rủ nhau lang thang qua những con hẻm nhỏ trong phố, có những cửa hàng cũng rất là nho nhỏ, và ngạc nhiên khi thấy giá bán ở những nơi này có phần rẻ hơn là những quán hàng rong ngoài bến nước.

Ăn cơm xong, chúng tôi lại chờ người hộ tống để trở lại bến tàu, lên xe bus về thành phố.  Ngày mai, chúng tôi sẽ giã từ Venice, kinh thành nước nổi tiếng của thế giới để tiếp tục chuyến du hành.

 

 

8/15 Venice -  Lucerne

Cũng theo công thức 6/7/8 (thức giậy, ăn sáng, và khởi hành).  Tám giờ chúng tôi rời Venice đi Lucerne.  Chúng tôi sẽ ghé Milan, một thành phố nhỏ ở cách Venice 295 kms, một trong những trung tâm thương mại và tài chính quan trọng của thế giới.  Milan còn được xem là “thiên đường mua sắm” có vô số cửa tiệm, trung tâm thương mại tràn ngập hàng hóa với những thương hiệu thời trang nổi tiếng khắp thế giới như Versace, Prada, Gucci, Ferragamo, Cavalli...  Milan cũng là nơi ngự trị của thánh đường Duomo, một ngôi nhà thờ toàn trắng, sừng sững như một núi đá hoa cương ở giữa quảng trường Plazza del Duomo.  Ngôi nhà thờ này được xây theo kiến trúc Gotic, có tổng cộng 135 ngọn tháp cao và nhọn, với bức tượng Chúa bằng vàng uy nghi đứng giữa trời.  Nghe nói người ta phải mất hơn 5 thế kỷ để hoàn thành thánh đường này.

11

Mười một giờ hơn chúng tôi đến Milan, nhưng thành phố vắng hoe, hỏi ra thì mới biết vì hôm nay là Ngày Lễ Đức Mẹ, nên chẳng có cửa hàng nào mở cả, làm mấy bà “born to shop” trong đoàn tôi buồn buồn vì mất cơ hội đi shopping mua sắm hàng hiệu.

Không được đi shopping nên chúng tôi có nhiều thời giờ hơn đi quanh quẩn ở quảng trường nhà thờ trắng.  Đã định vào bên trong xem lối kiến trúc của nhà thờ nhưng nhìn lớp người đứng vòng trong vòng ngoài ra đến bậc thềm tam cấp nên tôi quay ra, tôi biết Thảo và tôi sẽ không có kiên nhẫn đứng xếp hàng chờ đến lượt mình vào.  

Chúng tôi theo mấy người bạn đồng hành ra quảng trường xem du khách cho bồ câu ăn.  Chắc đây là “đất lành” nên bồ câu chiếm ngự một khoảng sân rất lớn.  Thấy chúng tôi đi tới, những anh chàng bán hột bắp cho bồ câu ăn ào ạt ùa tới, dúi vào tay chúng tôi những gói hột bắp rồi đòi tiền.  Một người trong đoàn của tôi “bị” nắm trong tay gói hột bắp đưa cho chúng 10 Euro nhưng chúng nhất định là phải trả giá 20 Euro.  Thấy thế, tôi rủ Thảo nhanh chóng bước  ra chỗ khác vì không muốn dự phần vào lối mua bán bất đắc dĩ  này.

Sau khi nghỉ ngơi, dạo chơi ở Milan một lúc,  chúng tôi tiếp tục lên đường đi Lucerne, vì còn khoảng 285 kms nữa mới tới khách sạn. Con đường từ Milan tới Lucerne phải đi xuyên qua những con đường hầm ngoằn ngoèo nằm trong lòng núi. Tôi cũng hăng hái tham dự vào cuộc thi “đếm đường hầm có thưởng” của ông giám đốc trưởng đoàn,  nhưng đếm được chừng vài ba chục cái thì tôi quên mất con số, đành bỏ cuộc.  Có thể nói, đây là chuyến du hành xuyên qua nhiều đường hầm nhất trong những tuyến đường lang thang đây đó của tôi. 

Chúng tôi nghỉ ăn trưa ở 1 quán bên đường, nằm bên cạnh 1 bờ hồ thật dễ thương.  Chúng tôi mua thức ăn xong rồi rủ nhau ra chiếm mấy cái bàn ngoài hàng hiên vừa ăn vừa ngắm cảnh.  Nhưng chẳng ngồi thư giãn được bao lâu thì lại nghe tiếng gọi tập hợp để lên đường vì con đường chúng tôi đi cũng còn dài lắm.

Xe vẫn tiếp tục chạy qua những con đường quê đầy cây lá xanh, hồ nước.  Trời đang nắng, bỗng dưng trở lạnh bất ngờ như trời ở Seattle, Đà Lạt, rồi những hạt mưa giữa ngày lãng đãng rớt rơi.  Mưa đổ, rồi lại ngưng, cứ thế cho tới khi chúng tôi vào địa phận Lucerne.

Chúng tôi làm thủ tục nhận phòng rồi ăn tối ở hotel.  Cái hotel nhỏ thôi, nhưng có một căn phòng ăn xinh xinh, với những hình, cảnh trang trí của miền thôn dã, 13rất ấm cúng.  Nhân viên phục vụ ở khách sạn này cũng dễ thương hơn là nhân viên trong khách sạn ở thành phố Mestre.  Chúng tôi sẽ tạm trú ở khách sạn Flora này đêm nay và đêm mai.

 

Ăn cơm tối xong rồi mà trời vẫn còn mưa lác đác, nhưng nghe nói đã đến Lucerne, thành phố an bình, duyên dáng của Thụy Sĩ, là phải đi viếng thăm biểu tượng nổi tiếng của Lucerne: cây cầu hoa Kapell và tháp nước Wasserturm, nên một nhóm nhỏ chúng tôi rủ nhau che dù ra ngoài bờ sông chụp hình. 

Chiếc cầu hoa Kapell này nổi tiếng thế giới vì là cây cầu gỗ cổ nhất ở Âu Châu, đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 14.  Cầu Kapell được làm bằng gỗ, xây theo hình zic-zac, có mái che được lợp bằng ngói đỏ, được bắc chéo qua sông Reuss, chứ không phải bắc ngang sông, nối liền hai khu phố mới và phố cổ. Giữa cầu là tháp nước Wasserturm, hình bác giác, được xây bằng đá, đã từng được sử dụng làm nơi giam giữ các tù binh thời Trung cổ.  Hai  bên thành cầu được trang trí bằng hàng loạt chậu hoa xinh xắn đủ màu, nên còn được gọi là cầu hoa.

Buổi tối, đèn đuốc sáng choang, lấp lánh trên mặt nước nên làm cảnh chụp thêm linh động.  Chụp hình xong, chúng tôi bắt đầu lên cầu đi dạo, chiêm ngưỡng những bức tranh treo trên các xà ngang phía dưới mái cầu, mà theo lời dẫn giải thì những bức tranh này đã được vẽ lên để mô tả một phần lịch sử Lucerne và những mốc quan trọng của đất nước Thụy Sĩ.

Chúng tôi đi dạo hết 1 vòng cầu hoa, rồi vui chân lang thang sang thành phố cổ bên kia cầu.  Đi được nửa vòng phố thì gặp ông trưởng đoàn VH đang cầm máy hình đi săn ảnh.  Ông rủ chúng tôi vào quán kem bên đường ăn kem ở Lucerne cho biết… giá.  Thật tình, trời mưa lạnh, nghe giá 1 ly kem còn lạnh hơn, 1 scoop kem nho nhỏ xinh xinh khoảng 4 Euro, bởi thế cho nên chúng tôi ăn chung với nhau, hai người 1 scoop ice cream cho… tình tứ.  

 

 

8/16 Lucerne

Sáng hôm nay, chúng tôi sẽ gặp tour guide lúc 9 giờ để đi viếng thành phố Lucerne, trung tâm thương mại nổi tiếng Âu Châu.  Thành phố nhỏ, nên… đi dăm bước đã về chốn cũ

Chúng tôi được hướng dẫn đi xem cây cầu cổ tích, tháp nước Wasserturm, và ngôi nhà thờ Lucerne ven sông Reuss.   Có lẽ, với tôi thì ngôi nhà thờ nho nhỏ này đẹp nhất trong những ngôi nhà thờ tôi đã viếng thăm trong những ngày qua.  
14
Nhưng cái hình ảnh ấn tượng nhất của cuộc viếng thăm ngày hôm nay là quán café “nằm”, ngay giữa phố, bên bờ sông.  Quán café rất nhỏ, có những bộ bàn ghế bọc khăn trắng cho khách ngồi nhâm nhi café, bên cạnh những bộ bàn ghế nhỏ đó là 1 cái giường đôi to tướng, có trải khăn, bày gối đàng hoàng.  Tôi không hiểu chủ quán đã dùng cái giường làm 1 vật trang trí, hay là muốn tạo ra một nét đặc trưng cho cửa hàng của mình. 

Đi một vòng thành phố, chụp hình với Bảo Tàng Nghệ Thuật Lucerne và tháp đồng hồ nổi tiếng Rathaus rồi chúng tôi được hướng dẫn đến tiệm Bucherer, một thương xá nổi tiếng của Lucerne, để xem những chiếc đồng hồ Rolex được bày bán ở đây.   Tôi chỉ dám liếc qua, chứ không dám dừng lại lâu để xem, vì chiếc rẻ nhất cũng  vào khoảng 5 ngàn Franc, còn những chiếc đồng hồ thượng hạng nằm trên giá cao hơn cũng sơ sơ chỉ có 3, 4 chục ngàn Swiss Franc.  Vậy mà tôi thấy cũng có vài “đại gia nước Việt” đang đứng xăm xoi, đeo thử. 

Đảo qua gian hàng đồng hồ xong chúng tôi rủ nhau đi lên gian hàng bán đồ lưu ni15ệm.  Để mặc cho những ông bà “born to shop” của đoàn tôi hăng say chọn lựa những món quà trên bước đường du lịch thì hai chúng tôi rủ nhau ra quầy hàng lầu 1, để nhận cái muỗng café bằng bạc có in hình, tên tiệm của cửa hàng Bucherer dành tặng riêng cho du khách đến xem hàng.

Buổi chiều hôm nay chúng tôi sẽ được tự do thăm viếng thành phố theo ý muốn.  Chúng tôi chia thành nhiều nhóm nhỏ, nhóm thì thích đi vòng vòng mua sắm, nhóm thì muốn về khách sạn nghỉ ngơi.  Rời cửa hàng đồng hồ, Thảo và tôi đi dạo trong trung tâm phố cổ, đếm bước trên những con phố cổ lát đá dành cho khách bộ hành và thảnh thơi ngắm các ngôi nhà đã được xây dựng từ nhiều thế kỷ trước, được trang trí với những tranh vẽ tuyệt đẹp làm say mê lòng người. 

Từ phố cổ, chúng tôi sang đường để ra bờ sông ngắm cảnh.  Ở đây, có những chuyến du thuyền đưa khách đi du ngoạn dọc theo hồ Lucerne.  Trước khi mua vé xuống tàu, chúng tôi ghé ngang 1 tiệm bánh gần đó mua bánh Croissant ăn cho đỡ tốn thì giờ, và để khỏi lỡ chuyến tàu.  Chao ôi, thật tình là tôi chưa được ăn cái bánh Croissant nào ngon như vậy.  Bánh nóng hổi vừa ra lò, thơm phức, lại to đùng, to hơn cả bàn tay, vậy mà giá bán chỉ có 1.30 Franc.

Vừa mua vé xong, quay ra thì chúng tôi gặp anh chị Song Ngọc cũng đang tà tà đi dạo.   Thấy chúng tôi mua vé đi dạo hồ nên anh chị cũng tháp tùng chúng tôi đi chơi.  Vì không có nhiều thì giờ nên chúng tôi không dám đi xa, nên chỉ đến bến Weggis là đã xuống.  Weggis là 1 bến nhỏ nằm trên bờ hồ, không xa bến tàu chính bao nhiêu, nhưng tàu chạy chậm, chủ đích là cho khách nhàn du ngắm cảnh nên vừa đi vừa về cũng phải mất hơn tiếng đồng hồ.  Tàu cập bến cho chúng tôi lên bờ.  Theo lịch trình thì 1 tiếng đồng hồ nữa sẽ có chuyến trở về, có nghĩa là chúng tôi không có nhiều thì giờ trên đảo.  Chúng tôi đi bách bộ dọc theo những con đường khúc khuỷu, quanh co dẫn vào những khu nhà cũng nho nhỏ trồng hoa đủ màu rực rỡ.  Đảo nhỏ vậy mà cũng có được dăm ba quán hàng. Đi đến 1 con đường dốc tôi thấy có 1 tấm bảng chỉ dẫn đường lên bến cáp treo lên núi ngắm cảnh.  Nhưng nhìn lại đồng hồ thì chúng tôi biết là mình sẽ không có đủ thì giờ đi lên đỉnh núi nên phải vòng lại bến chờ tàu.

Trong lúc đi vòng vòng chờ tàu tới, nhìn thấy quán café với chừng 2, 3 bộ bàn thấp ở mé sông cũng thơ mộng, nên ông bạn đồng hành của chúng tôi rủ vào uống café ngắm cảnh,  nhưng khi tới gần, nhìn cái menu treo lủng lẳng trên cành cây chúng tôi… tỉnh mộng luôn.  Ai đời, 1 ly café espresso nho nhỏ mà giá bán gần tới 12 Swiss Franc.  Nhìn cái bảng giá lại kỹ lưỡng thêm 1 lần để biết mình không đọc lầm rồi chúng tôi dời chân.   

Buổi tối đi ăn, trong lúc chờ đợi nhà hàng đưa thức ăn ra, chúng tôi được nghe kể lại 1 kinh nghiệm cười ra nước mắt.  Số là mấy người bạn đồng hành có tâm hồn ăn uống của chúng tôi sau khi chia tay để đi shopping đã hẹn gặp lại nhau cùng ăn trưa trong một tiệm Chinese Food.  An tọa xong rồi, nhìn menu mà họ không biết phải gọi món gì, vì 1 chén wonton soup với 3 cái wonton nho nhỏ giá 7 Franc, tô mì 1 vắt, wonton hay tomyum chỉ có 27 Franc.  Đang còn “suy nghĩ” thì thời may có 1 đoàn tour Trung Quốc ồ ạt tiến vào nên tiếp đãi viên phải nhanh nhanh đón tiếp đưa vào sắp chỗ.   Thấy thế, những người bạn trong đoàn của tôi đã bảo nhau từng người một từ từ rút lui… ra cửa, đi thẳng một mạch ra góc đường mà quên mất là còn gia đình 1 người bạn đang trên đường đi tới.

Không “hên” cho gia đình Henry, đến chỗ hẹn ăn mì hơi trễ.  Vì không biết mấy người bạn đã… “đánh bài chuồn” nên vào bàn ngồi chờ, trong lúc chờ đợi thì thằng con than đói bụng, Henry đành phải gọi mấy tô mì, mấy ly nước uống để “ngậm ngùi” trả gần 100 Franc cho bữa ăn trưa.  Vậy mà lúc về gần tới khách sạn, thằng nhỏ nói chưa no, nên Henry phải dẫn nó vào tiệm McDonald, mua cho con thêm 1 cái hamburger giá 12.5 Franc nữa.  Henry nhìn thằng con chưa tới tuổi lớn mà ca thầm… “Ta đã hao nhiều khi đi qua Lucerne…”

 

8/17 Lucerne – Paris

Chúng tôi rời Lucerne vào lúc 7:30 sáng, vì tuyến đường này cũng dài không kém đoạn đường từ Vienna tới Mestre.  Đi khoảng 335 kms thì chúng tôi dừng lại ở Beaune để ăn trưa và đi thử rượu.  Tôi chưa biết bánh mì Tây ở Paris ngon đến cỡ nào, chứ cái món bánh mì jambon mà chú16ng tôi được thử ngày hôm nay ở Beaune thật là không chê nổi.

Sau bữa trưa, chúng tôi được hướng dẫn vào hầm rượu Couvent des Cordeliers ở Beaune để nghe thuyết trình về cách thức làm rượu nho và nhìn ngắm những chai rượu đặc biệt được khóa kỹ sau lần cửa sắt ở cuối đường hầm.  Thuyết trình viên cũng cho chúng tôi nếm thử những loại rượu nho ngon họ đã cất, đựng trong những chiếc ly nhôm nho nhỏ mà khách đến viếng thăm có thể đem về làm kỷ niệm.  Rời hầm rượu, chúng tôi đi thăm bác, rửa tay rồi vào gift shop.  Shopping là 1 căn bệnh hay lây, nên đi vòng vòng ngắm nghía mấy chai rượu trên kệ xong rồi thì cả đoàn tôi bắt chước nhau khệ nệ khiêng ra xe bus một vài chai rượu ngọt. 

Thêm vài tiếng đồng hồ rong ruổi, khoảng xế chiều chúng tôi tới Paris.   Trước khi vào Paris chúng tôi lại được căn dặn kỹ càng là phải cẩn thận với tiền bạc, giấy tờ vì bọn móc túi ở đây đầy dẫy và chuyên nghiệp không thua gì ở Ý.  Đêm nay và đêm mai, chúng tôi sẽ tạm trú ở Crown Plaza, một khách sạn cũng khá gần những trạm metro của thành phố.

Nhận phòng xong rồi là chúng tôi sửa soạn đi ăn tối.  Bữa tối hôm nay có cá salmon và beefsteak (cho những người không ăn được cá).  Nhìn mấy dĩa beefsteak nóng hổi, thơm phức ở bàn bên cạnh, mấy người trong bàn tôi đã tiếc hùi hụi vì đã không “khai báo” dị ứng với cá salmon để được thưởng thức thịt bò trên đất Pháp.

Ăn tối xong, còn nhiều thì giờ nên anh Hùng dẫn chúng tôi đi metro ra đại lộ Champ Elysee xem tháp Eiffel rực rỡ dưới ánh đèn và chụp hình với Khải Hoàn Môn.   Con đường Champ Elysee buổi tối xe cộ chạy tứ tung, nhưng vì muốn có những tấm hình đẹp của kinh thành ánh sáng nên chúng tôi rán đợi đến lúc vắng xe, chạy u ra khoảng đất trống giữa đường… để chụp hình.   

 

8/18 Paris

Buổi sáng hôm nay chúng tôi sẽ đi thăm viếng tháp Eiffel trước nhất, sẽ leo lên đến lầu hai  của tháp để nhìn ngắm thành phố Paris loang loáng nắng.   Tôi vừa mở cửa khách sạn bước ra ngoài thì nghe những người bạn đồng hành gọi tên mình tở mở, bảo có người tìm.  Nhìn ra, tôi thấy cô em cõi ảo Hoàng Thy Mai Thảo đang lóng ngóng tìm tôi.  Vì đã nhìn thấy hình em từ trên diễn đàn nên tôi nhận ra ngay.  Tôi ôm HTMT vui mừng, tôi không nghĩ là em đã đến gặp tôi sớm như vậy, vì nơi em ở là ngoại ô Paris, phải mất một đoạn đường dài và hai chuyến metro mới tới đây.    Hôm ở Lucerne, tôi có email cho MT, cho biết tên khách sạn tôi sẽ đến tạm trú ở Paris.  Vì không biết rõ chương trình nên tôi cho MT điện thoại của ông trưởng đoàn tour VH để em tiện liên lạc.  Tôi cũng nói cho em biết là chúng tôi sẽ rất bận, vì phải đi chung với đoàn cả ngày, nên tôi chỉ có thể gặp em vào buổi tối, nhưng MT đã nghỉ làm một ngày để cùng tôi đi thăm viếng Paris, thành phố mà em đã nhận làm quê hương mới.   

prTrong lúc chờ đợi bà local tour guide mua vé vào cửa chúng tôi đứng tâm sự dưới chân tháp, và xem hoạt cảnh “chợ chạy” ở Paris.  MT nói, chợ này toàn là những anh bán hàng người gốc Phi Châu, vô gia cư không nghề nghiệp.  Họ độc quyền hoạt động ở đây cũng trên hàng chục năm qua, và cảnh sát thì vẫn cứ tìm theo để rượt bắt để không cho họ buôn bán ở nơi này.  Dĩ nhiên là cảnh sát sẽ không bao giờ thành công với sự ngăn cấm này, vì nếu có bị cảnh sát rượt, thì họ chỉ chạy vài vòng dưới 4 trụ chân tháp rồi lại xuất hiện đầy đủ với các hàng lưu niệm đeo trên vai, trên cổ. 

Chợ chạy có bán đủ thứ loại hàng lưu niệm Paris như hình tượng tháp Eiffel, móc chìa khóa có hình Khải Hoàn Môn, khăn choàng in thắng cảnh Paris đủ màu, đủ kiểu… Nếu không biết trả giá thì du khách mua hớ dễ như chơi, cũng như… tôi, vừa mua xong 10 Euro 3 cái khăn quàng cổ thì đã nghe có tiếng quảng cáo phía sau 10 Euro 5 cái. Một người khác trong đoàn đang định lựa mua mấy cái tháp Eiffel với giá 2 Euro 1 cái thì được bà bạn bên cạnh huých khẽ vào tay… “thằng nhỏ góc kia bán chỉ có 1 Euro…”

Sau đó thì chúng tôi được đưa đến viếng thăm nhà thờ Notre-Dame de Paris, nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Paris. Ngôi nhà thờ cổ kính tráng lệ này cũng là nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà văn hào Pháp Victor Hugo hoàn thành một tác phẩm bi quan, hoang dại.  Mùa hè, nên du khách ở mọi nơi đổ về đông đảo.  Chúng tôi cũng theo mọi người trong đoàn nối đuôi nhau đi một vòng cho biết, rồi đi ra chụp hình kỷ niệm ở bên ngoài mặt tiền của nhà thờ.  

Tiếp đến thì chúng tôi đi chiêm ngưỡng nhà thờ Thánh Tâm (Vương Cung Thánh Đường Sacré-Cœur), một nhà thờ Công Giáo nổi tiếng của Paris được xây dựng vào cuối thế kỷ 19.  Nhà thờ Thánh Tâm  tọa lạc ở trên đỉnh đồi Montmartre, thuộc quận 18, phía Bắc của thành phố Paris.   Sau khi nhận lịnh về giờ giấc và địa điểm tập họp, chúng tôi tản mác khắp nơi.  Nhìn cảnh nhà thờ vĩ đại trên đồi tôi theo MT hồ hởi bước lên những bậc thang đá, nhưng lên chưa tới chân đồi thì tôi oải, nhưng không ngừng lại được lâu vì thì giờ không cho phép, và đường lên cung thánh vẫn còn xa lắm.  Vừa tiếp tục con đường dài tôi vừa nhìn những đám du khách đang thảnh thơi ngồi ăn trưa, nằm dài trên thảm cỏ hai bên đường ngắm trời mây, cây lá mà thầm ước có được một vài phút giải lao như vậy.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng lên được cổng chính vào nhà thờ. Nhìn hàng hàng lớp lớp người đang xếp hàng đi vào thăm thú tôi cảm thấy không hăng hái tiến bước vào bên trong nữa.  Hơn nữa, tuy nhà thờ lớn, đẹp, nhưng chúng tôi không được phép chụp hình.  Thế nên ba chúng tôi trở ra, đứng trước mặt tiền của nhà thờ, chụp hình với toàn cảnh thành phố Paris.

MT hướng dẫn chúng tôi đi vòng ra quảng trường nhỏ bên hông nhà thờ thăm thú các quán hàng, nhìn ngắm các họa sĩ đang vẽ chân dung, hí họa cho du khách, rồi dẫn chúng tôi trở xuống thành phố.  MT nói nếu mệt, chúng tôi có thể mua vé trở xuống bằng cầu thang máy kéo Montmartre, nhưng nhìn thấy con đường đá xám rộng rãi, hai bên có những hàng cây cao che rợp mát nên chúng tôi chọn lối cầu thang đi bộ xuống.

Ra tới nơi tập họp rồi thì ai nấy cũng đã đói bụng lắm rồi.  Chúng tôi băng ngang con lộ, tới quán bán bánh mì thịt ở góc đường mua vội mấy cái bánh mì ăn cho nhanh rồi còn phải trực chỉ bến tàu.  Mang tiếng là bánh mì Tây, mà tôi thấy khúc bánh mì này không được dòn, và ngon như khúc bánh mì ở Beaune.

Rời nhà thờ Thánh Tâm, chúng tôi đi dạo bằng thuyền, chụp hình cảnh nhà cửa, cao ốc của Paris dọc theo giòng sông Seine.  Sau chuyến đi dạo bằng du thuyền thì xe bus sẽ thả đoàn xuống khu shopping Lafayette, là nơi mấy bà đang chờ đợi đến.   

Vừa bước vào bên trong khu shopping tôi đã choáng ngợp và không thở nổi với hơi người.  Nhìn mặt tôi MT nói: “Thôi để em đưa anh chị đi chơi, cho thoáng.”  Tôi nói với anh Hùng đừng chờ chúng tôi về ăn tối vì chúng tôi sẽ theo MT đi đại náo Paris bằng xe metro, phương tiện giao thông tiện lợi của Paris.  Thật tình, nếu không có cô em MT làm hướng dẫn viên thì chắc là chúng tckôi sẽ “ngơ ngẩn” trước hệ thống giao thông metro chằng chịt này, và sẽ đi lạc dễ dàng.  MT dẫn chúng tôi chạy đua với metro, vô con đường hầm dài nhất, ngồi trên chiếc metro hai tầng cho biết.  Ngồi dưới lòng sông Seine, nhìn những vết nước rỉ trên thành hầm tôi đã thầm lo ngại, nếu chẳng may con đường hầm này vỡ tung thì chắc là khủng khiếp lắm.  

Chúng tôi theo MT đi trở lại chỗ cũ, chụp hình dòng sông Seine với cái phông đẹp của nhà thờ Đức Bà, rồi đi vòng qua bên kia cầu để chụp hình một bờ tường khóa tình yêu.  Nghe nói, những ổ khóa này đã làm trĩu nặng bờ tường của chiếc cầu, có triển vọng làm thành cầu sụp đổ, nên chính phủ Paris đang tìm biện pháp để ngăn cấm hay là sẽ “thanh toán” vĩnh viễn những kỷ vật yêu đương này.  

MT dẫn chúng tôi đi vào thăm phố cổ, đi đến những quán café vỉa hè định uống café và nhìn ông đi qua, bà đi lại.  Nhưng đi hết quán này tới quán khác, chúng tôi cũng không dừng lại được ở một nơi nào vì những nơi đáng để mua “café ngồi”, ngắm cảnh thì đã bị khách hàng chiếm hết mất rồi.     

Thế nên, chún20g tôi lại tiếp tục đi ngoạn cảnh.  Đi vòng vòng một hồi cũng đã tới giờ ăn tối.  MT nói để dẫn chúng tôi đi ăn mì vịt nổi tiếng của Paris để xem có được bằng mì vịt ở Calif không.  Thế là chúng tôi vòng lại Notre Dame.  Phải công nhận là món mì vịt ở đây ngon như mì vịt ở Hong Kong.  Trước khi ăn, Thảo lấy máy chụp hình tô mì nóng hổi, hấp dẫn, đem về “khoe” cho mấy người bạn đi chung đoàn cho… họ tiếc. 

Ăn xong rồi, chúng tôi lại lên metro đi đến trung tâm thành phố.  MT chụp cho tôi mấy tấm hình với cây cột đá Obélisque ở quảng trường Concorde.  Cây cột đá trước kia ở trước cửa đền Louxor, Ai Cập, và đã được phó vương Ai Cập Mohammed Ali  tặng cho nước Pháp vào tháng 5  năm 1830.   Rời quảng trường Concorde chúng tôi đi xuyên qua vườn Tuleries để đến Khải Hoàn Môn Carrousel.  Từ  Khải Hoàn Môn Carrousel chúng tôi băng qua đường là đã đến bảo tàng viện Louvre.   Nhưng chúng tôi tới giờ này thì đã trễ, bảo tàng viện đã đóng cửa, nên chúng tôi chỉ đi vòng vòng chụp hình chung quanh cái kim tự tháp khổng lồ loang loáng ánh đèn.

Nhìn đồng hồ thì đã hơn 10 giờ đêm.  Cả một ngày “chạy tour” với 2 công ty AV và MT tôi đã thấy mệt lắm rồi.  Tôi nói MT cho chúng tôi về lại khách sạn vì chúng tôi còn phải thu xếp hành trang để ngày mai trở về quê cũ.  Về đến khách sạn, tôi mới nhớ là mình quên không ghé chợ mua Paté.  MT nói để ngày mai em dậy sớm đi chợ mua, rồi đem đến khách sạn trước khi tôi lên đường.   Nghe nói vậy, tôi phải “dọa” em là nếu sáng mai mà tôi thấy em ở khách sạn thì lần sau có dịp sang Paris tôi sẽ không thông báo cho em biết nữa.

 

 

8/19 Back to Home

Sau bữa ăn sáng chúng tôi rời khách sạn.  Từ phi trường Charles De Gaulle chúng tôi sẽ bay sang Heathrow trước rồi mới về lại quê nhà. 

Nếu ai hỏi tôi về cảm tưởng của cuộc chạy đua trên 5 nước Trung Âu này thì tôi sẽ thành thật trả lời là… quá mệt.  Có lẽ, ở cái tuổi “bên kia đồi” này tôi đã không còn thích hợp với những chương trình tour “phi nước kiệu xem hoa”, với cái công thức 6/7/8 (6 giờ thức dậy, 7 giờ ăn sáng, 8 giờ sửa soạn lên xe).   Hôm trước, đọc qua chương trình, nhìn bản đồ thấy những nước Châu Âu này ở cạnh nhau, và nghe nói đây là cái tour thư giãn nhất nên tôi đã tưởng là sẽ có 1 chuyến vacation “thoải mái”, nhưng không ngờ, những nước Âu Châu thấy gần như vậy mà phải đi cả ngày đường mới tới.  Chắc là từ sau này tôi phải tìm kiếm những cái tour “thư giãn” hơn cho hợp cái tuổi già đang tà tà đi tới.     

BT
5/23/14