Viết tặng
bố ngày
Father's day
Mấy người bạn đồng
nghiệp đã trợn tròn mắt lên
nhìn tôi khi biết tin tôi nhận lời đi
phỏng vấn ở Fraud (một cơ quan điều
tra và truy tố những người gian lận
trợ cấp xã hội), bọn họ tưởng
tôi điên. Con nhỏ xếp của tôi
mới đi phỏng vấn hai hôm trước,
chưa có kết quả, lăng xăng bên
tôi:
- You
có biết đường đi bao xa không? Lái
xe cừ như tớ mà còn phải tới
hết một tiếng rưỡi đồng
hồ, one way. Lò mò cỡ như you là phải đi
từ sáng tới chiều mới đến.
Rồi you làm sao đi làm cho nổi mỗi
ngày đây?
Con nhỏ lo lắng cũng phải,
vì tôi với nó đều hội đủ tiêu
chuẩn như nhau để tranh vào cái
chức vụ thanh tra này, và tôi có cái
biệt tài thi đâu đậu đó,
mặc dù tôi đã có cái
lối trả lời phỏng vấn rất lừng
khừng là đậu cũng được,
mà rớt cũng xong. Thêm nữa, lần
này ông xếp cũ của tôi lại đang
cầm quyền sát hạch, tuyển chọn
người vào chức vụ đó,
chính ông là người đã gọi đến
cho tôi lấy hẹn đi phỏng vấn
khi ông nhìn thấy tên tôi trên
cái danh sách supervisor cũ sắp quá thời
hạn tuyển dụng, hèn gì nó chẳng
cuống cuồng lên lo sẽ có thêm
một đối thủ đáng ngại. Tôi
lắc đầu cười:
- Tôi
chỉ mới đi phỏng vấn mà phải
không? Tôi đã được
chọn đâu mà lo đường đi
làm xa.
Rồi không hiểu sao tôi lại ỡm ờ trêu
nó:
- Cái
list supervisor này sắp sửa bị vứt
vào sọt rác rồi. Nêú tôi
không được lên chức thì có phải
phí công thi không?
Hai con bạn thân cùng làm
chung một nhóm với tôi nhìn tôi đăm đăm
như muốn tìm hiểu xem tôi đang
toan tính những gì. Mới hai năm
trước đây chúng nó chứng
kiến cái cảnh tôi “rũ áo
từ quan”, bỏ không thèm làm
xếp vùng Pasadena, hân hoan trở về Pomona
làm lại chức worker vì “đường
xa ướt mưa” mà bây giờ tôi
lại nhận lời đi phỏng vấn ở một
nơi xa gấp rưỡi con đường
ngày trước.
Con nhỏ Ngim chạy vòng qua bàn
tôi, hai tay ôm lấy đầu tôi,
nó gõ trên đầu tôi rồi
rờ rẫm trên trán tôi thử xem
trán tôi nóng hay là lạnh, nó sợ mấy
con vi khuẩn của trận cảm cúm vừa
rồi đã phá hỏng cái đầu óc
vốn dĩ đã không mấy bình
thường của tôi.
Con nhỏ Grace thì hiền hòa
hơn, nhìn sang tôi nhỏ nhẻ:
-
Sandy đi rồi, kỳ này
là “river of no return” đó nghe,
không có ai giúp mày đâu.
Sandy là bà phó giám đốc ở sở tôi,
vừa được lên chức thuyên
chuyển về làm việc ở văn phòng
trung ương. Bà là người đầu
tiên tôi chạy về cầu cứu sau
những ngày tôi thăng chức đổi
về Pasadena đi làm trong mưa bão:
- Đường
xa quá, mưa bão dữ dội quá,
tôi đi sắp hết hơi rồi. Can
thiệp cho tôi về với, không thì bà sẽ tiễn đưa
tôi lên tận đồi hồng.
Không đành lòng nhìn
tôi thiểu não với nước mắt
ngắn, nước mắt dài, Sandy chạy
bay vào phòng giám đốc. Mười
lăm phút sau Sandy chạy ra bảo tôi:
- Ngày
mai, ông giám đốc sẽ gọi sang
bên ấy điều đình để họ cho
you về, cố gắng làm việc đàng
hoàng cho tới khi xong hẳn giấy tờ.
Và tôi đã trở về sau
một tuần lễ, như mơ.
Lần này, tôi muốn đi
phỏng vấn ở Imperial vì chỉ một
lý do – tôi muốn chở hình
bố đi với tôi một đoạn đường
dài của cái xa lộ mới, chỉ có bố và tôi.
- Tôi có dịp nào đi xa như thế một
mình đâu. Tôi đâu có cơ hội
nào làm tài xế ngoài con đường
từ nhà đến sở, từ sở về nhà,
và những con đường vòng quanh
phố chợ. Ở nhà, đi đâu
xa thì có Hữu, ở sở thì có hai
nhỏ Grace và Ngim thay phiên nhau làm
tài xế. Có một lần tôi đi
ngang xa lộ 105, đó là lần tôi
phải đi huấn nghệ ở Long Beach,
nhưng tôi chỉ đi đến xa lộ 710
thôi rồi tôi phải đi vòng xuống
phía nam. Lần này tôi sẽ có dịp đi
hết con đường xa lộ mới, mà thích
thú hơn khi được đi tà tà vì là giờ của
sở.
Đã lỡ miệng chê là tôi
chậm lụt nên con nhỏ xếp phải
bấm bụng để tôi đi sớm. Tôi
có cái hẹn phỏng vấn lúc
một giờ rưỡi chiều. Hai tiếng đồng
hồ lái xe, cộng thêm một giờ ăn
trưa và một ít thời giờ trừ hao đi
lạc là tôi có đủ thì giờ để đi
hết xa lộ 105 và ngược lại. Thật
tình thì tôi lái xe cũng không
tệ lắm đâu, miễn là tôi
không phải lái xa thường xuyên,
từ từ thì tôi cũng đến
nơi. Nếu tôi rời sở sau 10
giờ sáng thì tôi sẽ không
lo cái nạn kẹt xe. Tôi chỉ cần đến
nơi hẹn phỏng vấn đúng giờ. Lúc
ra về thì tôi không cần phải
vội vã, bởi vì tôi chỉ có việc
về thẳng nhà.
Tôi trở về nhà làm
một miếng sandwich ăn cho đỡ mất
thì giờ. Tôi lấy tấm hình
của bố dán vào cái gối tựa đầu
của chiếc ghế bên cạnh tôi. Cột “seat
belt” cho bố bằng nhiều vòng băng
keo nhựa trong cho chắc chắn để hình
bố khỏi bay ra cửa nếu chẳng may
tôi có lỡ quên bấm nút kính
xe xuống. Từ cái chỗ ngồi
cao ráo này, bố có thể thoải
mái nhìn ra cả một khoảng không
gian rộng lớn của xa lộ 105, cái
xa lộ mà bố vẫn từng chờ đợi
cái ngày được lái xe qua.
****
Ngày đặt bút xuống
ký giấy mua nhà, bố đã được
người chuyên viên địa ốc
trấn an:
- Rồi
sẽ không bao lâu đâu, ông đừng
lo, plan đã được chấp thuận
rồi, chỉ chờ ngày khởi công. Ông
không nhìn thấy những căn nhà bị đóng
gỗ bít bùng ở hai bên đường đó sao? Đó là những
căn nhà sẽ được dỡ đi để lấy đất
làm đường. Hình cái
xa lộ đã được vẽ trên
tất cả những quyển bản đồ mới
nhất, có nghĩa là sẽ có mặt
một ngày không xa. Từ cái
xa lộ này, ông sẽ đi thẳng đến
phi trường một lèo, khỏi phải đi đường
dưới, nhanh hơn là từ nơi ông ở cũ.
Sở dĩ có cái vụ trấn
an này là vì bố tôi chưa
muốn mua căn nhà đó vội. Căn
nhà này ở cách xa nơi chúng
tôi đang thuê đến những mười
lăm phút lái xe, có nghĩa là,
muốn ra phi trường bố phải lái
xa thêm mười lăm phút.
Ngày đó, gia đình
tôi đang thuê nhà ở thành
phố Paramount, gần xa lộ số 7. Hầu
như là mỗi cuối tháng bố tôi
vẫn phải ra phi trường LAX để đón
bạn bè. Khi thì mấy ông
bạn gìa ở San Francisco xuống, khi thì mấy
người bạn lính từ San Diego lên. Từ nhà,
bố chỉ đi thẳng một đường
Rosecrans sang xa lộ 405 là đã tới
phi trường. Nếu dọn sang thành
phố Norwalk này, thì bố phải chạy
vòng xuống xa lộ 91, đi hết con đường
Artesia, rồi mới lên lại 405. Nhưng
nếu cái xa lộ 105 này thành hình
thì bố sẽ không phải đi lòng
vòng như thế.
Bố mua nhà được khá lâu
mà cái xa lộ vẫn chưa được
khởi công xây. Những căn nhà đóng
gỗ bít bùng vẫn im lìm nằm
phơi mưa, phơi nắng. Những quyển
bản đồ chỉ đường sá vẫn được
cập nhật hóa với cái xa lộ “sắp
sửa xây”.
Những ngày tháng mới mua
nhà, bố hay chở chị em tôi đi
qua vùng đất bị niêm phong, thử nhìn
xem những căn nhà bị đóng gỗ đã được
dời đi để xa lộ được
khởi công chưa. Riết rồi chán,
bố không thèm chờ đợi nữa.
Rồi tôi cũng bỏ thành
phố cũ, theo chồng về một vùng
núi xa xăm, tôi không có cơ hội đi
ngang cái vùng đất bị niêm
phong để nhìn cái xa lộ “sắp
sửa được xây” đã mười
mấy năm. Những lần gặp tôi
bố vẫn nhắc đến cái xa lộ 105
và cái chương trình hoạch định
dai dẳng của bộ công chánh.
Tôi nói với bố:
- Thôi
bố đừng chờ nữa cho mất công. Cứ như cái
trường trung học “sẽ xây” ở trên
vùng con, đất đã được
chấp thuận từ mười mấy năm
rồi, từ hồi vùng này mới
vỡ đất làm nhà. Mấy đứa
nhỏ của con đã học gần xong
tiểu học, không chừng mấy đứa
vào hết đại học rồi trường
cũng chưa xây.
Những người bạn gìa ở San
Francisco của bố, từ khi tìm được
chỗ đánh mạt chược ở China
Town nên ít xuống Los Angeles hơn. Những
người bạn lính ở San Diego đã có những
bận bịu riêng của đời sống
mới. Vả lại, sau này ai nấy
cũng có cơ hội sắm sửa xe riêng
nên bố không còn phải lo đón
rước bạn bè thường xuyên
như xưa nữa, nhưng bố vẫn mong đợi
cái ngày đầu tiên được
lái xe trên cái xa lộ 105.
NHƯNG BỐ ĐÃ KHÔNG CHỜ ĐƯỢC
NGÀY KHÁNH THÀNH XA LỘ 105.
****
Tôi đi từ xa lộ 60, sang
605, ngang qua đồi hồng tôi thầm gọi
bố: “Bố sẵn sàng chưa, hai
bố con mình sẽ làm một chuyến
viễn du”. Gần đổi sang xa
lộ 105, tôi nhắn nhủ “ sắp đến
rồi con đường bố vẫn muốn đi ”.
Tôi chở hình bố đi
hết cái xa lộ 105. Tôi lái
xe chạy vào phi trường, chạy một
vòng từ tầng trên xuống tầng
dưới, chạy qua mấy con đường
chung quanh phi trường để bố nhìn
thấy lắm sự đổi thay. Tôi
vòng lại đường lên xa lộ 105,
tìm đường đến nơi phỏng
vấn.
Cuộc phỏng vấn diễn ra nhanh
chóng. Tôi không có thắc
mắc gì để đặt thành câu
hỏi, cũng không cần biết phải
chờ đợi bao lâu mới có kết
quả. TÔI CHỈ CẦN ĐI NGANG XA
LỘ 105.
Tôi chở hình bố trở về,
cũng trên xa lộ 105. Gió buổi
chiều mát hiu hiu thổi. Chiều
giữa tuần, ngày còn sớm, tháng
mười hai mùa lễ nên xa lộ rộng
thênh thang. Tôi rời xa lộ, chạy
vòng qua những con đường thành
phố cũ, mong tìm lại vài hình ảnh
thân quen. Dừng xe lại trước
vùng đất đã có những
căn nhà bị niêm phong ngày trước,
nhớ đến bố, tôi bật khóc.
Bảo
Trân - LTM (1995)
|