312

 

 

Mùa Xuân Đi Thăm Xứ Sở Hạnh Phúc

                                 Bảo Trân

Từ lâu rồi, tôi vẫn ước mơ được đi du lịch Bhutan, hay “Thiên Đường Hạ Giới Cuối Cùng” (The Last Shangri-la), thăm viếng một nơi chốn được mệnh danh là “Xứ Sở Hạnh Phúc” vì sự phát triển của đất nước này được đo bằng hạnh phúc toàn diện của người dân chứ không dựa trên tổng sản phẩm trong nước.  Tôi cũng tò mò muốn biết thêm về đời sống người dân ở đây, vì tôi đã từng được nghe nói Bhutan là một đất nước duy nhất trên thế giới đã thành lập ra “Bộ Hạnh Phúc” (Ministry of Happiness), với một việc làm, mỗi năm đi vòng vòng, hỏi thăm, phỏng vấn dân chúng, xem họ có được hạnh phúc hay không.

Bhutan, còn được gọi là “Miền Đất của Rồng Sấm (Druk Yul), là một vương quốc nhỏ ở dãy núi Himalaya, nằm cô lập giữa Tây Tạng và Ấn Độ, với rừng núi thiên nhiên, hoang sơ.  Bhutan nhỏ lắm, chỉ có khoảng chừng 800 ngàn dân, với 75 phần trăm dân số theo Phật Giáo Tây Tạng truyền thống.  Bhutan không có nhiều tài nguyên, nguồn thu nhập chính là xuất khẩu thuỷ điện sang Ấn Độ và du lịch. 

Tuy nhiên, muốn đi du lịch Bhutan không phải là chuyện dễ dàng, vì chính phủ Bhutan quan tâm đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên nên hạn chế du khách, mỗi năm chỉ có một số du khách được cấp visa vào thăm viếng.  Hơn nữa, dịch vụ du lịch được chính phủ kiểm soát khá chặt chẽ nên cũng gây trở ngại cho du khách muốn tự “khám phá” đất nước “Rồng Sấm” một mình. 

Chúng tôi chọn Mùa Xuân để đi du lịch Bhutan, dù biết đây là mùa cao điểm, chúng tôi sẽ phải trả $250 mỗi ngày, cộng thêm lệ phí visa.  Chi phí này bao gồm khách sạn, ăn uống ngày 3 bữa, xe chuyên chở, tài xế và người hướng dẫn, cùng lệ phí vào cửa các danh lam thắng cảnh v.v...  Mùa Xuân là thời điểm đẹp nhất để du lịch Bhutan, vì khí hậu khô ráo, dễ chịu, chỉ thỉnh thoảng có vài ba trận mưa Xuân.  Mùa Xuân cũng là mùa hội hoa Đỗ Quyên (Rhododendron), chúng tôi sẽ được ngắm nhìn núi đồi, thung lũng của Bhutan ngập tràn màu sắc của hàng trăm loại Đỗ Quyên đang nở rộ.  Thêm nữa, tháng 4, Bhutan còn có mùa lễ hội Tsechu nổi tiếng, mà bao nhiêu du khách trên thế giới đã mong muốn về tham dự. 

 

*

Hôm nay là ngày dài nhất của cuộc hành trình.  Sau bữa điểm tâm chúng tôi sẽ giã biệt thành phố cổ kính Punakha để đi đến Trongsa.  Trongsa là một thành phố nhỏ, không có gì đáng kể ngoài Trongsa Dzong, nhưng thành phố này là một nơi để dừng chân ngơi nghỉ vì con đường từ Thimphu đến Bumthang rất dài và cũng rất gập gềnh. 

Nếu có dịp đi Bhutan, du khách sẽ phục sát đất về tài lái xe của những ông tài xế của xứ này.  Đường xá Bhutan nhỏ, xa lộ duy nhất trải dài từ Paro sang đến Bumthang nhiều đoạn chỉ có một chiều, một bên là vách núi, còn một bên là vực sâu thăm thẳm, lại không có rào cản, vì những đoạn đường này còn trong thời kỳ xẻ núi, đắp nền.  Con đường chật hẹp chỉ vừa đủ cho hai cái xe hơi nhỏ chạy, còn xe bus cỡ như xe chở chúng tôi thì phải sử dụng đến hơn nửa đường, nên xe này chạy tới thì xe khác phải de lui, nhường chỗ, không cẩn thận là rớt xuống vực như chơi.  Nếu may mắn gặp được một khoảng đất rộng hơn, đi được cùng một lần thì cả hai xe đều phải bẻ quặp kính chiếu hậu ở bên hông, từ từ lướt qua nhau.  Cho nên đến khúc đường nào đã được đổ xi măng xong, thấy xe chạy được hai chiều là chúng tôi mừng hơn trúng số.   

Càng đi chúng tôi càng thấy rất nhiều cột cờ trắng cắm trên đỉnh núi cao.  Từ mấy hôm nay, chúng tôi đã quen thuộc với những lá cờ cầu nguyện ngũ sắc được gắn theo chiều dọc trên đỉnh cột cao, hay giăng theo chiều ngang thành một chuỗi trên các sợi giây thừng, trên các con sông, đường núi, bên ngoài các khu pháo đài, đền thờ, trên nóc nhà v.v… nhưng chưa khi nào chúng tôi nhìn thấy cả một rừng cờ cao trắng toát như ở đây.

Hỏi tại sao nơi này treo nhiều cờ trắng hơn cờ ngũ sắc thì Nim giải thích, đây là những lá cờ cầu nguyện cho linh hồn người quá vãng.  Ở Bhutan, khi có người thân qua đời, người trong gia đình sẽ đem cắm những cột cờ trắng trên đỉnh núi cao hay gần dòng nước, với mục đích nhờ gió và nước đem những lời nguyện cầu bay lên cao, đi thật xa, hướng dẫn linh hồn người chết tái sinh về cõi trời, người, chứ đừng đoạ vào kiếp súc sinh, ngạ quỷ.  Họ có thể cắm rất nhiều cờ, hàng trăm cái hay hơn tuỳ ý, nhưng thường thường thì họ sẽ chọn con số 108, một con số quan trọng trong Phật Giáo.  Họ cũng có thể cắm cờ ở những thành phố khác nhau (chẳng hạn như nơi đang làm việc), chứ không nhất thiết là phải ở tại quê nhà.  Còn những lá cờ cầu nguyện ngũ sắc thì có một ý nghĩa khác, chúng được treo phất phơ trước gió để nhờ gió mang hạnh phúc, an lành, may mắn, đến cho gia đình và tất cả chúng sinh. 

*

Từ con đường dốc sau lưng Guest House chúng tôi đi bộ đến viếng thăm Trongsa Dzong, một cái pháo đài lớn và dài nhất của Bhutan, được xây dựng từ năm 1543 bởi Lạt Ma Drukpa.  Trongsa Dzong nằm trên triền dốc cao, nhìn xuống hẻm núi Mandge, được xây dựng theo một lối kiến trúc mê cung phức tạp, với những cầu thang bằng đá hẹp, nhiều ngõ ngách, hành lang, dễ làm lạc lối người đi.

 

Punakha Dzong

Punakha Dzong

Muốn vào trong Dzong, chúng tôi phải leo lên 20 bậc thang đá, rồi tiếp tục trèo thêm hơn chục bậc thang bằng gỗ cực kỳ dốc.  Chiếc cầu thang này có thể kéo lên đóng lại thành cái cổng, chắc ngày xưa được dùng để ngăn chận sự xâm nhập từ phía ngoài.  Xuyên qua cái mái hiên nhỏ có hai cái vòng quay cầu nguyện thật lớn, chúng tôi bước vào trong khuôn viên Punakha Dzong.  Chúng tôi tụ tập ở sân trước, nơi có một cái tháp khổng lồ màu trắng và một cây bồ đề cao lớn, để nghe Nim và Kinley giới thiệu về di tích lịch sử này. 

Punakha Dzong, còn được gọi là Pungtang Dewa Chhenbi Phodrang (có nghĩa là Cung Điện Hạnh Phúc) được xây dựng năm 1637, đã từng là thủ phủ của Bhutan cho đến năm 1952.  Được xây dựng trên hai chiến hào là sông Cha (Pho Chhu) và sông Mẹ (Mo Chhu), Punakha Dzong đã là một vị trí thành luỹ vững chắc để ngăn chặn sự tấn công của quân địch.  Sau khi vị vua thứ III của Bhutan dời đô về Thimphu thì Punakha Dzong trở thành văn phòng hành chính địa phương, và vẫn được sử dụng trong các buổi lễ trọng đại như ngày đăng quang của vua Bhutan thứ IV và thứ V.  Năm 2011, lễ cưới linh đình của vua Jigme Khesar Namgyel Wangchuck và hoàng hậu Jetsun Pema cũng đã được tổ chức tại đây. 

Cái khuôn viên thứ nhất này là trung tâm hành chính, nên những cánh cửa ở hai dãy lầu bao bọc khuôn viên thường thường được khép kín.  Cái sân thứ hai nhỏ nhất, là khu tu viện, có đường dẫn lên toà tháp cao 6 tầng.  Sân thứ ba dẫn vào một ngôi điện thờ, có ba ngôi tượng lớn của Phật Thích Ca, ngài Guru Rinpoche (Bồ Tát Liên Hoa Sinh, hoá thân của Phật A Di Đà và Thích Ca Mâu Ni) và ngài Zhabdrung Namgyal (người có công khai sáng ra đất nước Bhutan) cùng nhiều hình ảnh diễn tả về triết lý Phật Giáo qua lối suy nghĩ của người Bhutan.

Sau đó chúng tôi tự do đi khám phá Punakha Dzong.  Phần sân trước to rộng thì không có gì để xem ngoài những kiến trúc hoa văn đặc thù theo ảnh hưởng Tây Tạng.  Tôi bước vào phần sân thứ hai, định leo lên “thám hiểm” toà tháp chính, nhưng chỉ lên được tầng thứ nhất là tôi đã thấy chóng mặt với độ dốc của chiếc cầu thang gỗ, nên đành phải leo xuống. Len qua một lối đi nhỏ giữa mấy toà nhà tu viện tôi bước đến sân sau, nơi có một ngôi điện thờ, nghe nói một gian bên của điện thờ này là nơi lưu giữ xác ướp của hai vị thánh Bhutan là Pema Lingpa và Zhabdrung Ngawang Namgyal.  Gian này đã được khoá kín, chỉ trừ khi vị trụ trì và vua Bhutan đến đây cầu nguyện, nên chúng tôi chỉ có vào thể chiêm ngưỡng ba bức tượng lớn và hình ảnh về Phật Giáo Bhutan mà thôi.  

 

*

Hôm nay là ngày dài nhất của cuộc hành trình.  Sau bữa điểm tâm chúng tôi sẽ giã biệt thành phố cổ kính Punakha để đi đến Trongsa.  Trongsa là một thành phố nhỏ, không có gì đáng kể ngoài Trongsa Dzong, nhưng thành phố này là một nơi để dừng chân ngơi nghỉ vì con đường từ Thimphu đến Bumthang rất dài và cũng rất gập gềnh. 

Nếu có dịp đi Bhutan, du khách sẽ phục sát đất về tài lái xe của những ông tài xế của xứ này.  Đường xá Bhutan nhỏ, xa lộ duy nhất trải dài từ Paro sang đến Bumthang nhiều đoạn chỉ có một chiều, một bên là vách núi, còn một bên là vực sâu thăm thẳm, lại không có rào cản, vì những đoạn đường này còn trong thời kỳ xẻ núi, đắp nền.  Con đường chật hẹp chỉ vừa đủ cho hai cái xe hơi nhỏ chạy, còn xe bus cỡ như xe chở chúng tôi thì phải sử dụng đến hơn nửa đường, nên xe này chạy tới thì xe khác phải de lui, nhường chỗ, không cẩn thận là rớt xuống vực như chơi.  Nếu may mắn gặp được một khoảng đất rộng hơn, đi được cùng một lần thì cả hai xe đều phải bẻ quặp kính chiếu hậu ở bên hông, từ từ lướt qua nhau.  Cho nên đến khúc đường nào đã được đổ xi măng xong, thấy xe chạy được hai chiều là chúng tôi mừng hơn trúng số.   

Càng đi chúng tôi càng thấy rất nhiều cột cờ trắng cắm trên đỉnh núi cao.  Từ mấy hôm nay, chúng tôi đã quen thuộc với những lá cờ cầu nguyện ngũ sắc được gắn theo chiều dọc trên đỉnh cột cao, hay giăng theo chiều ngang thành một chuỗi trên các sợi giây thừng, trên các con sông, đường núi, bên ngoài các khu pháo đài, đền thờ, trên nóc nhà v.v… nhưng chưa khi nào chúng tôi nhìn thấy cả một rừng cờ cao trắng toát như ở đây.

Hỏi tại sao nơi này treo nhiều cờ trắng hơn cờ ngũ sắc thì Nim giải thích, đây là những lá cờ cầu nguyện cho linh hồn người quá vãng.  Ở Bhutan, khi có người thân qua đời, người trong gia đình sẽ đem cắm những cột cờ trắng trên đỉnh núi cao hay gần dòng nước, với mục đích nhờ gió và nước đem những lời nguyện cầu bay lên cao, đi thật xa, hướng dẫn linh hồn người chết tái sinh về cõi trời, người, chứ đừng đoạ vào kiếp súc sinh, ngạ quỷ.  Họ có thể cắm rất nhiều cờ, hàng trăm cái hay hơn tuỳ ý, nhưng thường thường thì họ sẽ chọn con số 108, một con số quan trọng trong Phật Giáo.  Họ cũng có thể cắm cờ ở những thành phố khác nhau (chẳng hạn như nơi đang làm việc), chứ không nhất thiết là phải ở tại quê nhà.  Còn những lá cờ cầu nguyện ngũ sắc thì có một ý nghĩa khác, chúng được treo phất phơ trước gió để nhờ gió mang hạnh phúc, an lành, may mắn, đến cho gia đình và tất cả chúng sinh. 

*

Từ con đường dốc sau lưng Guest House chúng tôi đi bộ đến viếng thăm Trongsa Dzong, một cái pháo đài lớn và dài nhất của Bhutan, được xây dựng từ năm 1543 bởi Lạt Ma Drukpa.  Trongsa Dzong nằm trên triền dốc cao, nhìn xuống hẻm núi Mandge, được xây dựng theo một lối kiến trúc mê cung phức tạp, với những cầu thang bằng đá hẹp, nhiều ngõ ngách, hành lang, dễ làm lạc lối người đi.

 

Trongsa Dzong

Trongsa Dzong

 

Cái Dzong này dài sọc, có đến 25 ngôi đền, nếu muốn nhìn ngắm tường tận từ đầu Dzong tới cuối Dzong chắc cũng phải mất mấy ngày trời.  Hôm nay, chỉ có vài tiếng đồng hồ, cùng lắm là chúng tôi chỉ có thể chiêm ngưỡng được mấy cánh cửa sổ sơn son thếp vàng với những hoa văn rực rỡ ở lầu trên, rồi lên phần sân thượng của tầng nhì, xong xuống lối nhỏ ra vườn hoa.  Thế nên sau khi nghe Kinley “hẹn hò” giờ giấc xong rồi là chúng tôi tản mác khắp nơi để đi ngắm cảnh, chụp hình.

Buổi trưa hôm nay, chúng tôi sẽ đến thăm Royal Heritage Museum và ăn trưa ở đó luôn.  Cái bảo tàng viện này là một phần của tháp canh Ta Dzong (một tháp canh kiểm soát và bảo vệ Trongsa Dzong trong những cuộc tấn công liên tục của Tây Tạng và Ấn Độ), hiện thời là nơi thờ phượng và trưng bày di sản lịch sử và tôn giáo của Bhutan. 

Trước khi vào cửa viện bảo tàng chúng tôi phải giao hết phone và máy chụp hình cho mấy anh tài xế cất giữ vì bảo tàng viện không cho phép đem theo.  Sau khi ngồi xem một đoạn phim ngắn về lịch sử Bhutan rồi thì chúng tôi tản mác ra mọi nơi để nhìn ngắm những bộ sưu tập. 

Bảo tàng viện này có tổng cộng 11 phòng, trưng bày những bộ sưu tập lịch sử khác nhau.  Phòng này tiếp nối với phòng kia bằng những dãy hành lang và cầu thang chỉ di chuyển được một chiều.  Kỷ vật, tài sản của hoàng gia như: áo quần nghi lễ, áo choàng của các vị vua, vương miện, gươm báu, đồ trang sức, cho đến các vật sử dụng hàng ngày như đôi giầy đá bóng của vị vua thứ IV v.v… đã chiếm ngự một số phòng đáng kể của viện bảo tàng.  Hình tượng của các vị Phật, Bồ Tát, và Lạt Ma cũng được trưng bày trong nhiều phòng khác.  Thậm chí đến những bức tượng Thánh Thần, Ma Quỷ có liên quan đến những câu chuyện truyền thuyết của Bhutan cũng được trưng bày trong một số phòng của bảo tàng viện.   

Tầng lầu gần đỉnh tháp canh có một cái đền nhỏ, thờ những hình tượng đại diện cho nhiều trường phái Phật Giáo Himalaya khác nhau, từ vùng Tibet, Mongolia, India, Nepal cho đến Bhutan…

Lần theo những bậc cầu thang xoắn ốc bằng đá nhỏ hẹp, chúng tôi lên đến tầng cao nhất, đài kiểm soát của tháp canh Ta Dzong để ngắm nhìn toàn thể thung lũng Trongsa.  Tầng kiểm soát này ở một độ cao chất ngất và trống hốc nên gió thổi thông thốc, đứng gần ngoài rìa bờ thành là có thể bị gió cuốn chứ chẳng chơi.  Nim bảo trước kia cũng có vài du khách vì chơi bạo, nhoài người ra ngắm cảnh, tự chụp hình nên bị gió bốc đi, thành các hướng dẫn viên có nhiệm vụ phải theo sát du khách, nhắc nhở, để phòng ngừa điều bất trắc.  

*

Ngày hôm nay là ngày đầu tiên chúng tôi ở Bumthang.  Sau bữa điểm tâm chúng tôi đi viếng Tamshing Lhakhang, một ngôi chùa cổ ở Bhutan, được cây dựng bởi Pema Lingpa vào năm 1501, hiện thời là nơi thường trú của gần 100 vị sư và chú tiểu.  Ngôi chùa trông có vẻ cũ kỹ và dường như không được tu bổ nên những bức tranh vẽ trên tường đã đi dần từ loang lổ đến mờ phai.  Chùa Tamshing có một lối kiến trúc khá đặc biệt với một con đường hẹp chạy quanh chính điện.  Bên trong chính điện là bức tượng của Guru Rinpoche và hai bức tượng Jampa (Phật của tương lai) và Thích Ca Mâu Ni ở hai bên.

Trong chùa có một tấm chăn bằng xích sắt nặng khoảng 40 pounds.  Nghe nói nếu ai có thể mang tấm chăn này trên lưng và đi bộ chung quanh chính điện 3 lần, và cảm thấy nó nhẹ như lông hồng thì đã thật sự chứng ngộ để loại bỏ tất cả tội lỗi của mình.  Tôi cũng bắt chước mọi người mang thử tấm chăn trên lưng đi bộ một vòng cho biết, nhưng tôi không có can đảm vác nó đi thêm hai vòng nữa.  Ông chồng của tôi thì vác được tấm chăn đi đủ ba vòng, ông nói, cảm thấy nó cũng nhẹ hơn, nhưng chỉ là vì mình đã quen với sức nặng của nó đó thôi, còn chuyện chờ đến lúc nó nhẹ tênh thì chắc cũng còn lâu lắm. 

Từ chùa Tamshing chúng tôi đi bộ qua chùa Kurjey nằm trong thung lũng Bumthang.  Con đường đi đã làm chúng tôi khá mệt vì trời nắng chang chang còn phải leo lên, leo xuống mấy đoạn đường dốc.  Chúng tôi đi ngang một dòng suối nhỏ, và bắt gặp các chú tiểu đang tắm giặt, vui đùa.  Tuy biết là có chúng tôi “trộm nhìn” qua ống kính, nhưng các chú tiểu vẫn thản nhiên tươi cười, dường như họ quá quen thuộc với những đoàn du khách viếng thăm chùa. 

Ngôi chùa Kurjey gồm có 3 toà nhà riêng biệt được xây dựng trong những thời điểm khác nhau và được bao quanh bởi một bức tường thành gồm có 108 bảo tháp.  Theo những bậc thang đá trắng chúng tôi lên toà nhà thứ nhất, nơi có trưng bày hàng ngàn bức tượng to, nhỏ, nam, nữ đủ cả của các vị Phật, Thánh, Thần. Vì không được phép chụp hình trong một ngôi đền, chùa nào hết, nên tôi không nhớ nổi là có những hình tượng nào, tôi chỉ nhớ, bức tượng to nhất trong chính điện vẫn là bức tượng của Guru Rinpoche.  Giữa sân chùa có ba cái bảo tháp trắng toát, to lớn, nghe nói đây là nơi an nghỉ cuối cùng của ba vị vua đầu tiên của Bhutan. 

Sau khi đi viếng thăm chùa Kurjey rồi chúng tôi lại tiếp tục đi bộ vào làng để đi đến nông trại Swiss ở Bumthang.  Nơi đây, chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu về nếp sống của người dân trong trang trại, và sẽ được thưởng thức một bữa cơm dân giã.   

Cái nông trại một tầng này vỏn vẹn có một cái phòng khách nhỏ và mấy gian phòng ngủ cũng nho nhỏ, giường chiếu rất đơn sơ, chỉ là những tấm nệm trải trên mặt đất.  Bữa cơm trưa ở trang trại cũng rất là đơn giản với vài món rau, đậu, bánh mì dẹp, mì xào, thịt gà kho, và nhất là không thể thiếu món sauce ớt nấu với phô mai.  Thức uống thì có nước lạnh trong chai và trà bơ sữa.

Hai cái món mà tôi không “mặn mà” lắm là món bánh bánh mì dẹp (Khur-le), và món trà bơ sữa (Suja).  Bánh Khur-le, có hình dạng như cái bánh Tortilla của người Mễ, được làm bằng bột kiều mạch, và ăn kèm với sauce phô mai ớt hay cà ri gà.  Còn trà Suja thì là thức uống nóng truyền thống của vùng núi cao Hy Mã Lạp Sơn, có công dụng làm ấm cơ thể, được nấu rất công phu với nước lá trà, sữa, bơ Yak và muối.  Theo lời chủ nông trại thì trong những ngày mùa Đông hay mưa lạnh, ngồi trong khung cửa, quấn mình trong chăn ấm, nhâm nhi bỏng gạo (Zaow), nhấp từng ngụm trà bơ sữa nóng, nhìn ra ngoài trời tuyết đổ, mưa rơi thì quả là tuyệt vời.  Thảo nào, trên mấy chiếc bàn nhỏ ngoài phòng khách có bầy sẵn những cái tô gỗ to đựng đầy bỏng gạo mà nãy giờ chúng tôi cứ chia nhau bốc ăn vì mùi thơm khó cưỡng.  Tuy nhiên, cái món trà này có vẻ “nồng nàn” hơn món trà bơ sữa chúng tôi đã được uống ở hội hoa hôm trước.  Vì không quen với cái mùi đặc biệt nên chúng tôi đành phải phụ lòng người chiêu đãi và xin nước lạnh trong chai uống thế.

Sau bữa cơm chúng tôi theo mấy anh hướng dẫn viên và mấy anh tài xế ra sân cỏ học bắn cung và phóng phi tiêu.  Tuy bắn cung là môn thể thao quốc gia và được ưa chuộng nhất ở Bhutan, nhưng môn phóng phi tiêu cũng được nhiều người tập dượt.  Hầu như mỗi làng đều có một sân vận động cho dân làng thực tập bắn cung để thi thố tài năng mỗi mùa lễ hội. 

Cái sân cỏ được chia lằn ranh rõ rệt, bên trái bắn cung, còn bên phải thì phóng phi tiêu.  Những mục tiêu bằng gỗ được sơn nhiều màu xanh đỏ trắng vàng cho dễ thấy và đặt cách đó cũng không xa.  Đây là sân tập bắn cho vui chứ cái mốc chính ở sân tập thi bắn cung thật sự thì phải đến hơn trăm mét.  Dẫu mới được chỉ dẫn nhưng các bạn đồng hành của tôi cũng rất hăng hái giương cung bắn mũi tên bay xa không thua gì người bản xứ.  

Đang chơi thì trời đổ cơn mưa, chúng tôi phải ngưng ngang cuộc vui, lên xe bus giã từ trang trại.  Nhưng đến lúc ra tới phố thì mưa tạnh.  Để không phí phạm buổi chiều còn lại, Kinley và Nim đưa chúng tôi đi thăm viếng Jampey Lhakhang, một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ thứ 7.  

Kinley nói, theo truyền thuyết thì chùa Jampey là một trong 108 ngôi chùa mà vua Tây Tạng Srongtsen Gampo đã cho xây dựng trên những vị trí khác nhau từ Tây Tạng qua đến Bhutan, để trấn yểm một nữ quỷ đang làm trở ngại con đường hoằng pháp của các Cao Tăng Phật Giáo.  Ngôi chùa Jampey này được xây cùng một ngày với ngôi chùa Kyichu ở Paro.  Cũng theo truyền thuyết thì chùa Jampey đã chận trên đầu gối trái của nữ quỷ, và ngôi chùa Kyichu thì chắn trên chân trái của nữ quỷ.  Còn một ngôi chùa nữa ở Lhasa (Tây Tạng) được xem như là ngôi chùa xây đằn trên thân nữ quỷ thì vì đứng hơi xa Kinley, nên tôi không nghe kịp cái tên.

Đêm thứ hai chúng tôi ở tại River Lodge Hotel, Nim đưa một người quen của anh, chuyên môn buôn bán Đông Trùng Hạ Thảo, đem những con sâu cỏ này đến cho chúng tôi xem.  Đông Trùng Hạ Thảo là một loại sâu có đời sống ngắn ngủi vì bị bào tử nấm chiếm ngự hết châu thân, rồi chết đi để biến thành cây cỏ, đã được xem là một loại “thần dược” hiếm quý từ ngàn xưa, được tin là đại bổ, giúp cải lão hoàn đồng, giải độc, tăng cường sinh lực, và có thể chữa được nhiều thứ bệnh. 

Nhưng sau cái ngày nhiều loại Đông Trùng Hạ Thảo biến chế được ra đời thì tôi không còn tin vào con sâu cỏ hai mùa Đông Hạ nữa.  Tuy nhiên, tôi có nghe nói, Đông Trùng Hạ Thảo ở Bhutan là một đặc sản thiên nhiên và tốt nhất của vùng núi cao Hy Mã Lạp Sơn.   

Người bạn của Nim đến, bày cho chúng tôi xem hai cỡ Đông Trùng Hạ Thảo, dài ngắn, mập ốm khác nhau, phần đầu có hai con mắt màu nâu đỏ, đuôi giống như một cái que cong.  Anh bảo đây là hai cỡ Đông Trùng Hạ Thảo mà khách vẫn thường mua vì giá cả rất phải chăng, $4 một con nhỏ và $6 một con lớn.  Anh cũng giảng giải cho chúng tôi biết làm sao để nhận biết một con sâu cỏ thật.

Theo lời người này thì: “Ở Bhutan, mỗi năm những người ở vùng núi cao của dẫy Hy Mã Lạp Sơn được cấp giấy phép thu hoạch Đông Trùng Hạ Thảo từ tháng 4 đến tháng 7.  Người thu hoạch phải có khả năng nhận biết loài sâu cỏ này, và phải rất là kiên nhẫn kiếm tìm vì chúng khá nhỏ.  Con sâu cỏ thật cầm nhẹ như 1 cọng cỏ khô, có tất cả 8 cặp chân, nhưng 4 cặp ở giữa là rõ nhất.  Phần thân sâu có nhiều vân và những nếp gấp rõ nét, tuy không đều nhau.  Nếu là sâu thật thì có mùi tanh như nấm rất đậm đà.  Đông Trùng Hạ Thảo thật thì càng nhai càng thơm.”

Tôi cầm con sâu cỏ lên, đúng là nhẹ như lời người bán hàng nói, và cũng có mùi tanh nhưng thoảng giống mùi tôm khô hơn là mùi nấm.  Nó có cặp mắt rất đỏ, mà theo lời người bán hàng thì màu mắt đỏ có nghĩa là mức adenosine cao (một hoá chất được sử dụng để điều trị loạn nhịp tim), đó là lý do Đông Trùng Hạ Thảo của Bhutan tốt hơn Đông Trùng Hạ Thảo của Tây Tạng (có cặp mắt màu đen).   

Thấy người bán hàng có vẻ thành thật nên vài người trong nhóm tôi cũng bắt đầu lấy đĩa lựa Đông Trùng Hạ Thảo.  Ham vui, tôi cũng theo bạn đồng hành mua vài chục con sâu cỏ, đem về ngâm rượu uống bồi bổ sức khoẻ để… đi chơi.

*

Nếu đúng theo chương trình thì hôm nay chúng tôi sẽ đi đến Ura Valley, cách Bumthang 65 cây số để thư thả tản bộ qua ngôi làng cổ kính, nhìn đàn Yak (loại bò lông dài Tây Tạng) lang thang trên đồng cỏ, và viếng thăm tu viện Phật Giáo xinh đẹp ở Ura.  Nhưng Kinley cho biết là hôm nay Bumthang có lễ hội Domkhar Tsechu, một lễ hội nổi tiếng, kéo dài ba ngày từ 25 tháng 4 tới 27 tháng 4 của người dân địa phương ở Domkhar Tashichholing Dzong, để vinh danh Guru Rinpoche.

Thế là chúng tôi đồng ý đi xem lễ hội thay vì đến thăm đồng cỏ Ura.  Khi chúng tôi đến nơi thì đã có hàng trăm người đã tụ tập ở sân đền, phần đông cũng là người bản xứ, đang chờ đợi khai mạc.  Mở đầu là một màn múa ca của 9 bà Bhutan với trang phục truyền thống đầy màu sắc.  Dù không hiểu mấy bà hát gì hết nhưng nhìn thấy mấy bà tươi cười khoa tay trong điệu múa tôi cũng thấy vui vui.  Sau đó là màn múa mặt nạ với những vũ công mang những cái mặt nạ nhiều màu xanh đỏ, với đủ hình thù ma quỷ, thú vật khác nhau.  Họ quay cuồng nhẩy múa chung quanh sân đền theo tiếng chiêng, tiếng trống dập dồn, hoà với tiếng nhạc ầm ĩ.  Tôi nghe loáng thoáng có tiếng người giải thích, bảo đây là một vũ điệu tế thần, họ đang kêu gọi thần linh về để ban hạnh phúc và may mắn cho dân làng, tất cả chúng sinh.

 

Dieu Vu Mat Na

Điệu múa mặt nạ

 

Trong lễ hội cũng có sự xuất hiện của mấy chú hề.  Họ bắt chước các điệu múa, làm trò đùa với khán giả.  Dẫu biết biểu tượng “dương vật” là một phần không thể thiếu của văn hóa Bhutan, nhưng tôi cảm thấy không thể quen thuộc được với hình ảnh các chú hề cầm cái “của quý” to tướng bằng gỗ, chạy tới, chạy lui, đập vào khán giả, và chờ đợi khán giả nhét tiền vào cái kẽ bên trên.    

Chúng tôi sẽ ăn trưa ở ngoài trời, trên bãi cỏ gần cái Dzong tổ chức lễ hội.  Công ty du lịch đã đặt thức ăn nóng sốt cho buổi trưa hôm nay.  Ăn xong, chúng tôi lên xe đi dạo cảnh Burning Lake (mà tôi tạm dịch là hồ Chiếu Sáng).  Burning Lake không hẳn là một cái hồ, hay đúng hơn là một hẻm núi nhỏ, được hình thành từ dòng nước của con sông Tang.  Burning Lake không phải là thắng cảnh, nó chỉ có một vẻ đẹp rừng núi hoang sơ, nhưng du khách đến viếng thăm cái hồ này vì cái địa điểm lịch sử và tôn giáo quan trọng của nó. 

Theo truyền thuyết thì Đại Sư Pema Lingpa đã tìm lại được kho báu kinh điển mà ngài Guru Rinpoche cất dấu dưới đáy hồ.  Cũng theo truyền thuyết thì khi ngài Pema Lingpa nhẩy xuống hồ để tìm kho báu thì có cầm theo một cái đèn đốt bằng dầu bơ.  Ngài đã lặn ngụp rất lâu dưới hồ, nhưng khi ôm tàng kinh nổi lên thì cái đèn bơ trong tay ngài vẫn chiếu sáng.  Do đó cái hẻm núi này được gọi là Burning Lake.  Từ đó, Burning Lake trở thành một địa điểm hành hương thiêng liêng của người Bhutan.  Họ đã giăng những lá cờ cầu nguyện nhiều màu sắc ở dọc đường xuống hồ, chung quanh hồ và đến đốt đèn dầu bơ chiếu sáng vào những ngày lễ lạc. 

*

Sau bữa điểm tâm sớm chúng tôi rời Bumthang đi thị trấn Gangtey ở vùng thung lũng Phobjikha.  Phobjikha Valley là một thung lũng rộng lớn, ở phía Tây của rặng Black Mountain, và nằm ở độ cao 3000 thước so với mặt nước biển.   Đây cũng là trạm dừng chân giữa đường để chúng tôi đỡ mệt.  Chúng tôi nghỉ ăn trưa ở Norbu Yangphel Restaurant rồi đi thẳng đến ngoạn cảnh trên cánh đồng cỏ xanh nổi tiếng là một thắng cảnh hữu tình của vùng thung lũng.   Mùa này, đồng cỏ Phobjikha xanh mướt, hoa Đỗ Quyên nở rộ khắp nơi, và những ruộng cây dương xỉ (Fiddlehead Fern), một loại rau được người Bhutan ưa chuộng, đang đâm chồi, nẩy lộc, hứa hẹn một mùa thu hoạch tốt đẹp. 

Vừa đi, Kinley vừa chỉ cho chúng tôi thấy sự khác biệt của vùng thung lũng và những thành phố khác.  Ở nơi đây, không có những đường dây điện giăng ngang dọc, vì vùng thung lũng này là nơi tạm trú của hàng ngàn cánh hạc cổ đen vào mỗi mùa Đông, nên chính phủ đã cho chôn toàn bộ đường dây điện xuống lòng đất để khỏi vướng víu, gây tai nạn cho những chú hạc khi thiên di về Phobjikha trốn lạnh. Mỗi năm, từ tháng 11 cho tới tháng 2, du khách có thể đến vùng thung lũng Phobjikha để dự lễ hội ngắm hạc cổ đen.      

*

Hôm nay, chúng tôi sẽ lên đường trở lại Paro.  Trong khi chờ hai bác tài đem xe xuống dốc, chúng tôi đi bộ sang thăm chú hạc cổ đen đang dưỡng thương ở Trung Tâm Điều Trị Hạc Cổ Đen ngay dưới chân khách sạn.  Chú hạc cổ đen này đã bị gãy cánh không thể bay trở về quê cũ nữa, chú đang cần điều trị và còn lâu lắm mới được tái hợp với đoàn.  Chúng tôi nhẹ bước đi vòng quanh cái chuồng chú đang trú ngụ, không dám làm chú hoảng hốt quạt cánh bay đi tìm chỗ trốn.  Tổn phí để chữa trị cho chú hạc cổ đen này cũng không nhỏ, nên trung tâm rất vui khi được sự hỗ trợ của du khách mọi nơi. 

Chúng tôi nghỉ ăn trưa ở Rinchenling Cafeteria Punakha, một quán ăn nằm cuối một con ngõ có nhiều quán bán hàng lưu niệm và những căn nhà có mặt tiền được trang trí bằng tranh vẽ “dương vật”.  Ngay trong cái quán ăn mà chúng tôi đang nghỉ ăn trưa đây, cũng có trưng bày hai cái biểu tượng hạnh phúc to tướng, hai màu, ở ngay quầy tính tiền.  Quán ăn có ba mặt là khung cửa kính, nhìn ra những thửa ruộng xanh mơn mởn và Chimi Lhakhang ở phía xa xa. 

Lý do Kinley chọn ăn trưa ở quán này là để tiện cho chúng tôi đi thăm viếng chùa Chimi sau khi dùng bữa. Chimi Lhakhang, nằm ở trên ngọn đồi cao cuối làng, còn được gọi là “Ngôi Đền Sinh Sản”, là 1 trung tâm hành hương của những cặp vợ chồng hiếm muộn.  Nhưng muốn đi đến ngôi đền này, chúng tôi phải vượt qua những thửa ruộng ngút ngàn, đi qua bãi bắn cung rộng thênh thang, rồi mới leo lên đồi vào tu viện.  Theo lời Kinley thì con đường làng nhỏ hẹp, xe không chạy vào được, nên phương tiện duy nhất là đi bộ.  

Chúng tôi nhìn ra ngoài trời nắng như đổ lửa, ngại ngần.  Mấy ngày hôm nay dầu dãi trên con đường thiên lý, tắm nắng, gội mưa nên chúng tôi cũng cảm thấy hơi mệt mỏi, hơn nữa, chúng tôi còn phải giữ sức để leo lên Tiger Nest ngày mai, nên chúng tôi thông qua cái chuyện viếng thăm ngôi đền sinh sản. 

Riêng tôi thì tôi không còn thấy hiếu kỳ để đến viếng thăm Chimi Lhakhang nữa, sau khi nghe được câu chuyện truyền tụng trong dân gian về ông “Thánh Điên” Kunley và “Ngôi Đền Sinh Sản”.  Theo câu chuyện thì Drukpa Kunley là một nhà sư đến từ Tây Tạng.  Ông có một cuộc sống lập dị, say sưa, dâm đãng, và rất hãnh diện với cái tên “Thánh Điên” (Devine Madman).  Ông đã tự hào với lối tu hành khác lạ của mình và bửu bối trời cho để chinh phục hàng ngàn phụ nữ.  Ông sử dụng biểu tượng “dương vật” để chinh phục ma quỷ và ban phước lành cho những người tin tưởng ông.  Ông khuyến khích dân chúng vẽ những bức tranh “của quý” ở mặt tiền nhà, và trưng bày biểu tượng này trong nhà để được may mắn, hạnh phúc, và không bị ma quỷ quấy phá.

Rời ngôi làng với những biểu tượng hạnh phúc của ông Thánh Điên, chúng tôi đi về hướng Paro.  Lúc gần về tới thành phố Kinley đưa chúng tôi ghé qua hãng dệt, nhìn ngắm những tấm sà rông đầy màu sắc và tìm hiểu về lối dệt vải của người Bhutan.  Dệt vải, đối với người dân Bhutan, là một phần quan trọng trong văn hoá và đời sống.  Những người thợ dệt phải qua những lớp học dệt vải, học cách lựa chỉ, pha màu, để có thể dệt nên những khúc vải có hoạ tiết phức tạp đan kết, hoà hợp với nhau.  Nhìn những người thợ dệt thoăn thoắt trên khung cửi tôi mới thấy họ thật sự là những nhà mỹ thuật, có óc sáng tạo rất dồi dào và tinh tế.  Tôi nghe nói thời gian để hoàn thành một miếng sà rông tuỳ thuộc theo màu sắc và hoa văn được chọn.  Có miếng vải được dệt trong vòng vài tháng, nhưng cũng có miếng vải phải mất cả năm trời mới được dệt xong.  Thế nên giá cả mấy miếng sà rông này cũng chẳng chút phải chăng, cái nào nhìn thấy đẹp mắt cũng phải đến hơn ngàn đồng tiền Mỹ.  

Chúng tôi trở về Tiger Nest Resort vừa vặn bữa cơm chiều.  Tối nay chúng tôi sẽ ăn cơm sớm, nghỉ ngơi để có sức đi leo núi ngày mai.  Kinley sẽ cho “wake up call" đánh thức chúng tôi dậy lúc 5 giờ rưỡi sáng.  Khoảng 6 giờ rưỡi chúng tôi sẽ rời khách sạn, đến quán ăn ở dưới chân núi dùng điểm tâm, rồi đi thẳng lên Tiger Nest.
 
Trước khi đi chơi, tôi đã háo hức lên mạng tìm hiểu về Tiger Nest, một địa điểm du lịch nằm trong “bucket list” (danh sách những ước mơ sẽ thực hiện trong đời) của tôi.  Tiger Nest hay là tu viện Paro Taktsang, cái nôi của Phật Giáo ở Bhutan, được xây dựng năm 1692, là một nơi linh thiêng nhất ở Thiên Đường Hạ Giới Cuối Cùng.  Tiger Nest là mục tiêu chính để du khách đi du lịch Xứ Sở Hạnh Phúc.  Tu viện Taktsang toạ lạc chênh vênh trên một vách núi đá hoa cương cao chất ngất (10 ngàn feet), nhìn xuống thung lũng Paro.  Theo truyền thuyết thì ngài Liên Sinh Hoa (Guru Rinpoche), một đạo sư truyền bá Phật Giáo vào Tây Tạng và Bhutan, đã ngồi trên lưng một con hổ, bay đến địa điểm này để chinh phục một con quỷ dữ, rồi ở lại tu hành.  Sau khi ngồi thiền định trong 3 năm, 3 tháng và 3 ngày, ngài bắt đầu hoằng pháp để phát huy Phật Giáo ở Bhutan. 

Đang ngủ ngon, tôi bị đánh thức bởi những giọt mưa rơi lộp độp trên mái hiên.  Mưa càng lúc càng lớn hơn, như trút nước.  Cứ thế, trận mưa kéo dài từ nửa đêm cho tới sáng.  Tôi nằm nghe mưa rơi mà não nề, không biết mình có dám tham dự cuộc chơi vào sáng mai không, vì Tiger Nest ngày khô ráo đi đã khó, mưa ướt như thế này thì làm sao tôi có thể leo tới nơi.  

Sáu giờ sáng điện thoại reo, tiếng Kinley bên kia đầu giây, anh xin lỗi là phải huỷ bỏ chuyến đi lên Tiger Nest hôm nay, vì trời mưa nên đường lên núi sẽ rất nguy hiểm.  Tuy nhiên khoảng bẩy giờ thì chúng tôi vẫn rời khách sạn đi ăn sáng vì Kinley đã đặt quán hàng làm điểm tâm cho chúng tôi rồi.  

Đến khoảng gần 9 giờ thì mưa tạnh, ánh nắng chan hòa khắp mọi nơi.  Kinley bảo, nếu chúng tôi có muốn leo lên Tiger Nest thì nên thử hôm nay, chứ ngày mai mà lại mưa thì đúng là công cốc.  Thế là chúng tôi nhanh chóng uống vội tách café dang dở, trở về khách sạn để sắp soạn hành trang leo núi. 

Xe chở chúng tôi lên đến bãi đậu xe của Tiger Nest.  Tưởng mưa gió không có ai đi, vậy mà cũng đã có bao nhiêu người đang xếp hàng vào cổng.  Ai không đem theo gậy chống leo núi thì có thể mua ngay ở đây, chỉ có $1 một cái thôi.  Qua khỏi cổng kiểm soát là nơi thuê lừa, nếu không muốn lội bộ thì du khách có thể thuê lừa chở đi cho đỡ mệt.  Nhưng lừa chỉ đi đến khoảng nửa chừng núi thôi, và chỉ chở lên chứ không chở xuống, nên những đoạn đường còn lại du khách vẫn phải tự lo.  Nhìn mấy con lừa lấm lem với bùn chúng tôi ngần ngại, hơn nữa, chúng tôi cũng nghe nói đã có nhiều tai nạn xảy ra trên đường núi này vì mấy con lừa này hay trửng giỡn, nên chúng tôi quyết định nhờ đến đôi chân của mình và mấy cây gậy chống.

Chúng tôi bắt đầu lên núi.  Kinley và tất cả thành viên của công ty Dzogchen chia nhau đi chung quanh, hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi.  Những đoạn đầu tiên không mấy khó khăn vì quãng đường núi này rộng thênh thang và cũng hơi thoai thoải.  Chúng tôi chỉ phải thận trọng tránh những vũng nước to, nhỏ rải rác đó đây mà trận mưa vừa rồi đã để lại.  Nhưng khi chúng tôi đi qua cái lạch nước và vòng quay cầu nguyện chạy bằng thuỷ điện, có những lá cờ ngũ sắc giăng ngang thì con đường bắt đầu dốc hơn, hẹp hơn và khúc khuỷu nhiều hơn.  Đã thế, chúng tôi còn phải nép sát vào một bên sườn núi để tránh mấy con lừa đang hung hăng sấn tới, đôi khi chúng còn nhẩy cỡn lên để chọc phá lẫn nhau.  Nhìn những người ngồi lắc lư trên thân lừa mà tôi thấy lo sợ, vì chỉ cần hụt một bước là cả người, cả lừa sẽ rớt xuống vực sâu.

Đi thêm một đoạn đường ngắn nữa thì chúng tôi đến ngôi đền nhỏ, chính giữa có cái vòng quay cầu nguyện thật lớn.  Gần đó là một dãy vòng quay nhỏ, nằm dưới mái hiên che được lợp bằng tôn.  Những lớp cờ Lungta ngũ sắc được trang trí với những hình ảnh linh thú, những câu thần chú và những lời cầu nguyện đã bắt đầu từ đây, kéo dài tận đến cổng vào Taktsang Cafeteria. 

Chúng tôi nghỉ chân ở Taktsang Cafeteria ăn trưa và nghỉ mệt.  Cái sân đá trống trải phía trước của Cafeteria cũng là một cái “view point” thật tốt để chúng tôi ngắm cảnh, và chụp hình với toàn cảnh tu viện Taktsang cùng núi non hùng vĩ. 
Sau bữa ăn thì trời lại âm u có vẻ muốn mưa nên có vài người trong đoàn tôi đề nghị đi xuống núi.  Mấy anh chàng hướng dẫn viên của công ty du lịch thấy có người muốn về nên nét mặt tươi vui hẳn lên.  Không vui làm sao được vì hơn 4/5 số người trong đoàn tôi đều ở lưng chừng cái tuổi “nhi nhĩ thuận” hết rồi, và cái chặng cuối cùng của con đường lên Tiger Nest này cũng khá cam go.  

Nhưng sau đó thì chúng tôi chia làm hai nhóm, một nhóm nhỏ theo Kinley trở về, nhóm còn lại theo Nim tiếp tục lên hang.  Đoạn đường tiếp nối này cũng không đến nỗi khó khăn, vì nó có một chiều ngang khá rộng, tuy có hơi gập gềnh, nhưng được cái là có hai vách núi bao che, hơn nữa chúng tôi không phải lo tránh mấy con lừa như đoạn đường bên dưới, nên chúng tôi cứ thong thả mà đi.  Cứ thế, chúng tôi đi dần đến 1 khoảng đất bằng phẳng có ngôi đền nhỏ, cửa đóng kín mít, bên ngoài có một bờ đá thấp.  Nơi đây mới thật là một nơi chốn ngừng chân tuyệt vời để chụp hình vì có thể nhìn thấy tu viện Taktsang thật rõ ràng.

Lúc này thì mấy anh hướng dẫn viên của chúng tôi có ý muốn về, vì cái đoạn đường cuối cùng này mới thật sự gian nan, chúng tôi phải vượt qua 800 cái bậc cầu thang đá, 600 bậc đi xuống, và 200 bậc đi lên.  Nhưng đã nhìn thấy cái cảnh đẹp mê hồn của Tiger Nest thì dễ gì chúng tôi chịu bỏ cuộc.  Thấy chúng tôi phom phom tiến bước mấy anh chàng hướng dẫn viên đành phải xoa đầu, vò tóc đi theo. 

Thật tình thì tôi cũng cảm thấy mệt lắm rồi đây, cứ đi hơn chục bậc thang là tôi phải ngừng lại để thở, rồi mới tiếp tục bước đi.  Vừa đi tôi vừa cầu Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu ngài Liên Sinh Hoa, cho tôi lên được tới sân chùa.  Cuối cùng thì tôi cũng tới nơi. 
Đứng ở hành lang sân cờ, ngắm khung cảnh chung quanh, nhìn ngược lại mấy cái cầu thang dốc, tôi mới thấy thật là hạnh phúc.  Tôi cứ ngỡ là đang trong mơ, vì chưa bao giờ tôi nghĩ là tôi có thể lên được tới Tiger Nest, một ngôi chùa chênh vênh trên đỉnh núi, ở một đất nước xa lạ trong dãy Hy Mã Lạp Sơn.  

 

Trên đường về từ Tiger Nest

Trên đường về từ Tiger Nest

 

Vì chùa không cho phép đem máy ảnh, túi xách vào nên chúng tôi gửi cho anh tea boy và anh tài xế rồi đi theo Nim.  Khu vực Tiger Nest này có nhiều ngôi đền khác nhau nhưng chúng tôi không có đủ thì giờ thăm viếng hết vì đường về còn xa, nên chúng tôi chỉ đi một vòng viếng khu thờ phượng bên dưới rồi leo lên cầu thang vào chính điện.  Chắc đây chỉ là một nơi để khách hành hương vào chiêm bái nên chính điện có một diện tích rất nhỏ, vậy mà bức tượng bằng đồng to tướng của ngài Liên Sinh Hoa đã chiếm hết một phần ba. 
Vừa lúc chúng tôi sửa soạn bước ra thì gặp một vị cao tăng bước vào để đèn hương sửa soạn buổi kinh chiều.  Ngài nói với Nim là ngài muốn ban phước lành cho chúng tôi.  Thế là chúng tôi lần lượt bước tới trước mặt ngài đỉnh lễ, hoan hỉ nhận nước thánh, phước lành và sợi dây chỉ đỏ may mắn từ tay vị cao tăng.

Chúng tôi khoan khoái trở về trong không khí trong lành của mùa Xuân.  Con đường về có vẻ dễ dàng hơn lúc đi lên.  Ánh nắng dịu dàng chan hoà khắp núi rừng thanh tịnh.  Chúng tôi cứ luyến tiếc, nhẩn nha nhìn ngắm, chụp hình mà quên là trời đã ngả về chiều, và sập tối thật nhanh.  Chúng tôi phải nhờ sự hỗ trợ của ánh đèn từ những cái điện thoại đem theo để vượt qua đoạn đường rừng cuối cùng, xuống đến bãi đậu xe.  Lúc này đã 6 giờ chiều, bãi đậu xe vắng lặng, chỉ còn một cái xe bus nhỏ của chúng tôi và một cái xe nhà của mấy người Ấn Độ chúng tôi gặp trên đường. 

Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau thì chúng tôi về tới khách sạn.  Tôi thấy Kinley đang chắp tay đi đi lại lại trước sân, nét mặt có vẻ lo âu, anh tươi tỉnh hẳn lên khi thấy “đoàn người chinh phục đỉnh Tiger Nest” trở về… nguyên vẹn và đầy đủ.   
Đêm nay, chúng tôi phải thanh toán nốt mấy cái bịch chà bông còn lại, vì tối mai là Farewell Dinner, tiệc giã biệt, chúng tôi sẽ dùng bữa ở một nhà hàng ngoài phố, nên không ăn hết món chà bông này thì chỉ còn có nước bỏ đi. 

Thật tình thì những món ăn của Bhutan cũng không đến nỗi khó ăn.  Mấy ngày qua, chúng tôi cũng đã dần quen thuộc với ẩm thực của người bản xứ.  Tuy nhiên họ sử dụng phô mai nhiều quá, đa phần những món ăn đều có chữ cuối… Datshi (phô mai).

Cái món Datshi mà tôi thấy thường trực 3 bữa ăn là món sauce ớt và phô mai (Ema Datshi), trong hai dạng đặc và lỏng, cay rát lưỡi hay chỉ vừa phỏng môi là tuỳ theo số lượng ớt nấu chung.  Một món khác cùng họ Datshi là món khoai tây cắt lát mỏng nấu với ớt và phô mai (Kewa Datshi), món này thì ngon đậm đà với sự hoà quyện bùi bùi của khoai tây, béo ngậy của phô mai và ớt cay cay.  Còn cái món nấm, rau củ nấu với phô mai (Shamu Datshi), là cái món tôi không hảo lắm, phải chi họ chỉ xào sơ với bơ tỏi là cũng nên một món rau “chóp sui” ngon lành.

Món bánh bao (Momo) thì hình dạng cũng hơi giống như những cái bánh xếp của mình (potsticker), bên trong có chút nhân thịt trộn với rau và phô mai.  Món bánh này được chấm với một loại tương ớt của Bhutan (Ezay).  Món mì sợi của Bhutan (Puta) làm bằng kiều mạch (buck wheat), nên cái vị của nó hơi nhẫn nhẫn, không như món mì trứng của mình, nhưng xào với bơ tỏi ăn cũng tàm tạm.  Còn cái món cà ri gà (Jasha Maru) của Bhutan cũng na ná món cà ri Ấn Độ, nhiều gia vị đặc trưng nên có vị cay nồng. 

Thức ăn Bhutan chủ yếu là rau, nên thực đơn có nhiều món rau khác biệt.  Tôi thích nhất là hai loại rau: lá rau củ cải khô (Lom) và rau dương xỉ (Nakey) xào bơ tỏi.  Hôm nào, gặp được hai cái món rau này là tôi có thể ăn rau trừ cơm.

Duy có một món thịt, mà tôi tiếc là đã không biết trước để mà thưởng thức.  Hôm ghé ăn ở trưa ở quán bên đường, tôi có múc thử một món thịt màu nâu đậm, được nấu với củ cải, hành tây.  Món thịt khô rang, cứng và dai, ngồi nhai trệu trạo một hồi tôi phải bỏ thịt ăn rau.  Sau này tôi mới biết đó là món thịt khô bò Yak nổi tiếng của Bhutan, một loại thịt có nhiều chất bổ dưỡng hơn thịt bò thường, được nấu với ớt và củ cải (Shakam paa). 

*

Hôm nay là ngày cuối cùng chúng tôi ở Bhutan.  Đáng lý ra thì chúng tôi sẽ đi Haa Valley để ngắm cảnh chụp hình, nhưng viếng thăm được nhiều đền đài, thắng cảnh ở Bhutan, nhất là đã lên được tới Tiger Nest là chúng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm rồi.  Hơn nữa, mang tiếng đến Paro, mà thật tình chúng tôi chưa nhìn được phố xá thị trấn này ra sao, nên khi Kinley đề nghị đi vòng vòng Paro, rồi đi shopping ở ngoài phố thì không người nào phản đối. 

Trước khi đi ra phố thì Kinley lại đưa chúng tôi đi viếng thăm thêm một cái Dzong nữa, đó là Drugel Dzong, một pháo đài và tu viện Phật Giáo.  Drugel Dzong được xây dựng năm 1649 để đánh dấu ngày quân đội Bhutan đã ngăn chặn được cuộc tấn công của Tây Tạng.  Drugel Dzong ngày nay chỉ còn là phế tích sau khi bị tàn phá bởi một trận hoả hoạn.  Nghe nói Drugel Dzong đang được chính phủ Bhutan xây dựng lại, nhưng nơi chúng tôi đến viếng vẫn còn trong cảnh hoang tàn.    

Rời Drugel Dzong chúng tôi đi đến Kyichu Lhakhang, cái chùa được xây cùng 1 ngày với cái chùa Jampey ở Bumthang để trấn yểm nữ quỷ.  Chùa Kyichu được xem là ngôi chùa cổ đẹp nhất ở Bhutan và có lưu giữ nhiều di tích quan trọng.  Nhưng không biết hôm nay là ngày gì mà khách thập phương đông quá, khói hương mù mịt khắp nơi nên chúng tôi không vào trong chính điện.  Chúng tôi chỉ đi chung quanh chùa, xoay những vòng quay cầu nguyện, rồi đi vòng vòng chụp hình với cây tùng cổ thụ và những bụi hoa mộc lan tím đang nở rộ trong sân. 

Sau khi ăn trưa ở khách sạn Yarkhel, nơi chúng tôi đã làm quen với ẩm thực Bhutan ngày đầu tiên, chúng tôi trực chỉ phố Paro.   Phố xá Paro cũng nhỏ, hình như chỉ có một con đường chính, với những cửa hàng đồ mỹ nghệ, chén bát bằng gỗ, mặt nạ Thánh Thần, Quỷ Sử, bát hương, chuông đồng, vòng quay cầu nguyện, tranh thêu Phật Gíao (Thangka), mấy cái chuỗi hột đá trang sức của vùng Hy Mã Lạp Sơn v.v…, nhưng nhiều nhất là vẫn là những hàng khăn dệt bằng lông bò Yak.  Thỉnh thoảng tôi thấy có mấy quán tạp hoá, chủ yếu là bán đồ khô, vì trái cây, rau cải buổi chiều cũng chẳng còn gì. 

Tôi ghé vào xem Đông Trùng Hạ Thảo ở mấy cửa hàng trong dãy phố thì thấy giá bán đắt hơn người bạn mà Nim giới thiệu nhiều lắm.  Có những con chỉ hơi trộng hơn mấy con sâu cỏ chúng tôi mua một chút, vậy mà họ đòi tới những $15 - $20 một con.  Trà Đông Trùng Hạ Thảo cũng có bán ở mấy tiệm này, chỉ có $10 một hộp trà thôi, nhưng nghe nói chỉ có 1/100 là Đông Trùng Hạ Thảo, phần còn lại là… trà. 

Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ đi dạo hai bên đường phố mà lúc trở về bà nào trong đoàn tôi cũng có trong tay “chiến lợi phẩm”, phần nhiều là mấy cái khăn quàng lông Yak và trà Đông Trùng Hạ Thảo. Tôi cũng rất vui vì đã tìm ra cái bát hương dài vừa ý, trên nắp có bánh xe Pháp Luân và bên hông có hàng chữ Án Ma Ni Bát Ni Hồng. 

Vậy mà cũng đã tới 4 giờ, chúng tôi phải trở về khách sạn, sửa soạn tươm tất hơn để dự bữa tiệc Farewell tối nay ở Charo and Daroo Restaurant.  Happy Hour có rượu, bia, nước ngọt, một loại chips (bánh chiên) đặc biệt của Bhutan và vòng lửa trại sưởi ấm.  Rượu chưa mềm môi, chuyện còn đang giòn giã mà trời lại nổi cơn dông, thế là chúng tôi phải nhanh chân chạy vào trong nhà hàng trú ẩn. 

Ở trong căn phòng lớn nhất của nhà hàng, nơi đã được dành riêng cho chúng tôi đêm nay, có bày sẵn ba cái bàn dài trải khăn hoa đẹp đẽ.  Những món ăn quen thuộc, nóng sốt đang đợi chờ.  Mấy ngày vừa qua, Kinley và đoàn tuỳ tùng của anh có một mâm cơm riêng biệt, có thể là vì họ không ăn thịt, nhưng tối nay, chúng tôi yêu cầu họ ngồi chung với chúng tôi, để có thể trò chuyện một cách thân mật hơn. 

*

 

Sáng hôm nay tôi dậy sớm, đứng ở khung cửa sổ, nhìn ra cảnh núi đồi Tiger Nest mờ ảo tít trên cao, mà cảm thấy tâm hồn mình lắng đọng.  Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thôi là tôi sẽ rời xa Xứ Sở Hạnh Phúc, nơi có một cuộc sống thật bình dị nhưng mọi người luôn tươi tắn với nụ cười.  Trong mười mấy ngày ở đây, tôi đã tiếp nhận được rất nhiều nụ cười: từ mấy người bạn trẻ phục vụ ở khách sạn, dù có phải vác những cái vali gần 50 lbs mỗi ngày lên xuống mấy tầng lầu mà vẫn tươi cười đùa giỡn thật vui; từ người thợ nề xây xa lộ trong trưa nắng chang chang, thấy xe chúng tôi chạy qua, nhìn lên nở một nụ cười rồi cúi xuống làm việc tiếp; từ đám trẻ thơ trên đường về học, không biết chúng tôi là ai nhưng cũng chắp tay, cúi đầu, cười chào lễ phép; từ những chú tiểu hồn nhiên nô đùa tắm nắng bên giòng suối nhỏ; từ những người bán hàng trong thị trấn, đon đả chào đón, giải thích cặn kẽ sự khác biệt của những món hàng, mà không cần biết chúng tôi có mua sắm gì không hay chỉ là nhìn ngắm cho vui.

 

Những đứa trẻ đi học về

Những đứa trẻ đi học về

 

Họ đã khiến tôi nhận ra, hạnh phúc của người Bhutan được đong bằng sự chân thành của người bản xứ, bằng lối sống không bon chen, không quá chú trọng đến nhu cầu vật chất.  Họ hài lòng với những gì họ có nên họ luôn luôn vui vẻ, dù cuộc sống của họ có thể không “đầy”, hay chỉ là “vừa đủ”.  Hạnh phúc, đối với họ, không xa xôi, nên không cần tìm kiếm, tất cả… chỉ là những nụ cười. Và hạnh phúc của tôi, cũng nằm đây trong trái tim tôi.  Tôi đang hạnh phúc, vì đã đi, và đến được một nơi chốn mà tôi đã hằng ước mơ.

                                                                                     

                                                                                                                    Bảo Trân (11/18)