Đưa
hai vợ chồng người
khách hàng ra cửa rồi, tôi
trở lại bàn giấy ngồi. Lật
cái hồ sơ của hai người ra đọc
lại từng trang xong tôi cũng không
biết phải bắt đầu từ đâu.
Hai cái hồ sơ này, quả là có khác
biệt với những cái hồ sơ từ bao
nhiêu năm nay tôi đã duyệt qua.
Nơi tôi làm,
một cơ quan đặc trách tìm việc làm
cho người xin hưởng trợ cấp xã hội để những
người này có thể tự lực cánh
sinh. Khách hàng của tôi, từ bao nhiêu
năm nay, phần nhiều là những người
trẻ, phần lớn đã bỏ học ngang khi
chưa đến lớp mười hai, có một
số ít người qua khỏi được ngưỡng
cửa trung học, và chẳng có mấy người
tấp tễnh lên được đến chương
trình đại học hai năm.
Bộ xã hội đã khuyến khích
những người hưởng trợ cấp đi
học lại trong một chương trình
học được qui định trong vòng
hai năm, không cần biết là học
chữ hay học nghề, để khả dĩ có được
một phương tiện tìm công ăn
việc làm, tự lực cánh sinh. Để khuyến
khich những người xin trợ cấp đi
học lại, chính phủ đã dành
riêng những ngân khỏan đặc
biệt cho dịch vụ giữ trẻ, giúp đỡ mua
sách vở, và phương tiện giao
thông.
Sau ngày đầu năm 2005, khi bộ xã hội
thay đổi luật lệ, gia hạn cho những
chương trình học được kéo
dài lên đến năm năm thì có nhiều
người xin trợ cấp đã cố gắng để hòan
tất chương trình đại học.
Nhưng hai cái
người khách hàng này, quả là khác
biệt, vì sức học đã vượt qua
hết cả những người xin trợ cấp, vượt
qua cả đến đám công chức làm
việc trong bộ xã hội của tôi và dám
vượt qua cả đến giám đốc của
bộ xã hội.
Ông chồng, đã có bằng Ph. D từ bao
nhiêu năm về trước, một nhà hóa
học, chuyên với công việc điều nghiên
mấy cái mỏ khóang chất. Còn người
vợ, đã học xong cái bằng Master, đã từng
làm giám đốc một chương trình
giáo dục, nhưng đã nghỉ làm từ 9
năm nay, để ở nhà coi con. Bà đang
dự định ghi tên đi học lại ở một
ngôi trường tư nổi tiếng gần nhà,
với hy vọng là được chính phủ giúp
cho học phí và bộ xã hội trợ cấp
tiền sách vở, phương tiện giao thông
và luôn cả tiền giữ trẻ.
Tôi tròn
mắt nhìn hai người khi nghe họ trình bày ý kiến
vể luật lệ “không công bằng” của
cái chương trình tìm việc làm do
bộ xã hội đã đưa ra. Hai người đã than
phiền là bộ xã hội đã làm
phí thời giờ của hai người quá vì những
cái công việc chúng tôi đưa ra không
thích hợp với họ tí nào. Ông
chồng nói - ông quen làm giám đốc rồi,
dưới tay ông đã từng có bao nhiêu
là nhân viên, mà công việc của ông
thì phải ở ngòai tiểu bang, bởi vì Cali đâu
có mỏ khóang chất nào cho ông điều
nghiên đào xới.- Bà vợ thì bảo
- tôi đang tìm thì giờ để nộp đơn
xin làm giảng sư đại học, họăc
là những công việc làm khác tương đương,
chẳng hạn như điều hợp quản trị một
xí nghiệp nào đó… dạy học ở mấy
cái trường trung học thì bà không
có thích, bởi vì lũ học trò trung
học không có…dễ dạy tí nào.-
Mấy người
chuyên viên đi tìm việc làm cho khách
hàng cũng ngao ngán như tôi, khi tôi giới
thiệu hai vợ chồng qua nói chuyện với
họ để giúp ông bà tìm việc
làm, và đương nhiên là cái
công việc nào cũng bị ông bà chê.
Tôi cố tình
kéo dài thì giờ để tìm lối
thóat cho cả ba người, hai vợ chồng và tôi. Tôi đã cho
hai người đến mấy cái hẹn khác
ngày nhau, cho gia hạn có lý do chính đáng để cho ông
chồng có đủ thời gian hỏi lại xếp
cũ của ông (đang ở một tiểu bang ráp
danh bắc bán cầu), xem có giúp ông tìm
một dự án nào để điều hợp
hay không.
Ông đã hỏi
tôi:
- Cái quận Thiên Thần này có cần
giám đốc không? Tôi thích
hợp với công việc làm đó.
Tôi đã nhã nhặn
trả lời:
- Chắc là có, vậy thì mời ông đi
lên văn phòng trung ương, thể nào
cũng có những việc làm vừa ý ông
hơn.
- Vậy thì cô giúp cho tôi
phương tiện giao thông để lên
downtown hả?
- Ông muốn nói là tiền đi
xe bus? Vâng, chúng tôi sẽ giúp ông.
- Không, tôi muốn nói là tiền để mướn
xe. Tôi không có đi xe bus, tôi lái
xe, Cái xe của tôi tám máy, hao
xăng, mà bà vợ tôi phải cần
xe để đưa thằng con đi học, đón
nó về. Tôi đi taxi cũng được.
- Thưa ông, nhưng rất tiếc là bộ xã hội
không có cho phép chúng tôi trợ giúp
những phương tiện giao thông xa xí như vậy. Ông ở gần
trạm xe lửa, chúng tôi có thể giúp ông
tiền mua vé xe lửa, lên đến
downtown rồi là ông sẽ chỉ cần đi
bộ một chút sẽ tới nơi.
- À, nếu vậy thì tôi chờ người
chủ cũ ở Alaska gọi tôi đi làm.
Còn nữa, cái chứng chỉ khoan dầu
của tôi sẽ hết hạn cuối tháng
này. Nếu tôi không xin gia hạn thì tôi
sẽ không tìm được việc,
mà tôi thì không có đủ 300 đồng.
Cô có cho tôi 300 để xin gia hạn
cho cái chứng chỉ này của tôi
không? Thêm vào đó, tôi
cần tiến mua vé máy bay để đi
nhận việc, sở xã hội sẽ giúp
tôi mua vé máy bay chớ?
Trời đất ơi, hỏi mà sao không
thấy ngượng miệng. Tôi cũng không
biết phải trả lời ông ta ra sao! Làm
việc từng đó năm, tôi chưa
bao giờ gặp những câu hỏi xin tiền
trợ cấp kiểu này. Mấy người
xin trợ cấp từ nào tới giờ được
thêm tiền xe bus đi làm hay đi học
mỗi tháng là đã hân hoan
lắm rồi.
Tôi nhớ ngày đầu tháng 9 năm
75, khi rời nhà người bảo lãnh ở Louisiana
dọn về Cali, gia đình tôi được
một họ đạo vùng Downey giúp đỡ. Sau
hai tháng chưa tìm ra việc làm
nào thích hợp cho bố, người đặc
trách phần xã hội trong nhà thờ Lutheran đã đưa
bố má tôi đi xin Welfare. Bố tôi
cầm cái ngân phiếu Welfare mà cũng
không biết là người ta cho tiền
mình đúng hay là sai. Má tôi
thì đã khóc lên rưng rức ở ngay
phòng chờ đợi khi người cán
sự đưa cho cái giấy lãnh phiếu
thực phẩm, làm mấy người làm
việc trong văn phòng cũng náo lọan
cả lên. Người cán sự xã hội đã cuống
cuồng hỏi tới hỏi lui bố tôi:
- Bà ấy làm sao vậy? Tại
sao mà tự dưng bà ấy khóc
vậy?
Bố tôi, phần thì phải dỗ má tôi,
phần thì phải giải thích với
người cán sự:
- Bả tủi thân thôi, vì từ nào
tới giờ gia đình tôi đâu
có biết đi xin ai đâu. Ở trong
trại tị nạn chỉ có một tháng
thôi, tôi cũng đi làm. Khi ra trại,
qua Louisiana tới ngày thứ ba là tôi đã leo
lên xe bus đi làm, đi làm cho tới
tuần lễ cuối cùng trước khi
leo lên xe Greyhound để đi về Cali.
Người cán sự tuy đã yên
tâm với lời giải thích của
bố tôi, nhưng vẫn năn nỉ:
- Bà đừng có khóc nữa,
kẻo người ngòai nhìn vào
nói tôi hiếp đáp ông bà thì khổ cho
tôi. Rồi tụi Welfare Rights lại bắt
tôi phải làm báo cáo tường
trình nữa. Thôi, cứ coi như là ông
bà vay mượn chính phủ tạm
thời đi, khi nào đi làm thì ông
bà đóng thuể trả lại.
Vậy mà bây giờ, những người đi
xin trợ cấp xã hội cao cấp này
cứ làm như là đi đến để tiếp
thu tiến bạc mà bộ xã hội đã thiếu
nợ họ. Như thể là cái nhiệm
vụ lo lắng chu tòan cho cuộc sống
của người dân là trách nhiệm
thiêng liêng của chính phủ không
bằng.
Trước khi ra về, người chồng
nói với tôi:
- Cô có biết sự khác biệt
giữa người họa sĩ và người
thợ sơn không? Người họa
sĩ vẽ những bức tranh tuyệt tác,
và người thợ sơn chỉ biết
sơn tường. Tôi là họa
sĩ, nên tôi phải có vải trắng,
cọ tốt, màu tươi.
Tôi suy nghĩ một giây rồi trả lời:
- Tôi biết. Vậy thì ông có nhìn
thấy mấy cái tranh vẽ ở trên
những bức tường trong thành phố hay
bên hông xa lộ hay không? Người
họa sĩ có tài sẽ đi tìm
cho mình một nét sáng tạo mới,
không cần phải vẽ trên khung vải
trắng tinh đâu. Đôi khi, cái
chổi sơn cũng giúp mình có những
nét vẽ khác biệt, dù chỉ là những
nét vẽ trên bức tường xi măng.
Tôi muốn nói với ông là dân
tộc tôi cũng nổi tiếng là những
người thợ sơn vẽ tranh đại
tài đó. Chúng tôi, những
họa sĩ tha hương, người dân
của một nước nhược tiểu,
cũng đã từng làm những thợ sơn
tường. Trên đất nước
người xa lạ, cầm cái cọ cũng
không xong, pha màu cũng không biết
sao cho hòa hợp, nhưng chúng tôi đã cầm
chổi sơn vẽ nên những bức tranh
tuyệt tác trên những bức tường
xi măng của những cái xa lộ rộng
dài.
Bố tôi cũng từng là nhà họa
sĩ vẽ tranh trên tường. Từ cái
cọ sơn, bảng màu, bố đã chuyển
qua cây chổi và cái thùng sơn. Sau
khi xin Welfare được vài tháng, một
người trong họ đạo cần phu khuân
hàng trong cái nhà kho của ông
ta nên nhận bố vào làm. Từ cái
việc ngồi chuyển quân ở một
cái đất nước xa xôi đó,
bố tôi cũng đã đổi qua
chuyển từng cái thùng hàng nặng
nề trong một cái nhà kho độc
quyền phân phối mỹ phẩm cho những
thẩm mỹ viện tòan vùng nam Cali.
Làm được vài tháng, ông
bà chủ hãng thấy bố tôi có phần
thông minh hơn cái ông xếp của
bố tôi trong cái nhà kho đó,
bèn cho bố tôi thăng cấp lên điều
khiển cái nhà kho. Rồi năm sau ông
chủ cho bố lên làm tổng giám đốc
coi luôn cái nhà kho và cả văn
phòng. Tuy được làm tổng
giám đốc nhưng bố vẫn xắn
tay áo lên xếp hàng với nhân
viên, đôi khi còn phụ họ khiêng
vác hàng ra xe cho tài xế chở đi
giao.
Tôi đi làm với bố những ngày
hè của năm học thứ hai, phụ bà thơ ký làm
sổ lương cho nhân viên vì tôi
có học mấy lớp kế tóan. Có hôm
tôi thấy bố phụ khiêng hàng
lên văn phòng chờ đóng dấu
trước khi chuyển đi, rồi ngồi
phịch xuống ghế mà thở, tôi ứa
nước mắt. Buổi trưa ngồi ăn
cơm với bố ở phòng ăn, tôi
trách bố:
- Bố lớn tuổi rồi, khiêng chi
cho mệt, mấy cái thằng to con đâu
không bảo nó khiêng?
Bố trả lời:
- Mình phải làm với nhân
viên, để họ không lười
biếng được. Sai bảo thì bố thừa
sức sai bảo họ làm, nhưng mấy
cái chuyện làm này đâu có khó gì con. – Bố xoa đầu
tôi – đừng nghĩ ngợi, mình
phải tùy thời, tùy hòan cảnh,
phải biết uyển chuyển, không phải
cứ như ngày xưa đâu con.
Còn tôi thì cũng đã từng
làm thợ sơn thay vì làm họa
sĩ. Ngày còn ở quê nhà tôi đâu
có biết làm gì ngòai cái
việc cắp sách đi học và …làm
thơ. Hồi đó, không có chuyện
gì làm sau khi thi đậu cái bằng
tú tài tôi ghi danh vào đại
học, học ở cái trường mà bố bảo
không làm được cái nghề ngỗng
gì hết ngòai cái việc mơ với
mộng, và chờ đến ngày lấy
chồng.
Vậy mà, sang đến đất nước
người, tôi cũng chăm chú học
cái nghề quản trị xí nghiệp
cho đến nơi đến chốn. Nhưng
tìm mãi không ra được cái
xí nghiệp nào để cho tôi quản
trị hết nên thành ra tôi cũng
phải đầu đơn vào làm ở bộ xã hội để giúp đỡ những
người sa cơ thất thế. Từ ngành
kinh doanh tôi chuyển qua làm xã hội
một cách ngon ơ, không thắc mắc
chút nào.
Mà cái nghề của tôi làm đâu
có dễ dàng như nhiều người
tưởng. Tôi mà không có đủ kiên
nhẫn là đã chuyển nghề từ lâu. Đôi
khi, ngồi nghe khách hàng phàn nàn
tôi đã muốn vươn tay vặn
quách cổ của họ cho cái đầu
quay từ đằng trước ra đằng
sau, nhưng tôi vẫn phải nhẫn nhịn
mở một nụ cười tươi tắn.
Có nhiều khi, nghe thư ký báo đến
cái tên khách hàng muốn tìm
gặp là đầu tôi đã nóng
rang lên như bị lửa đốt. Tôi
lại phải chạy sang phòng ăn, lấy
vài cục nước đá trong tủ lạnh
ra, bỏ vào cái ly nước của
tôi uống một hơi rồi mới đẩy
cửa ra gọi khách hàng.
Vậy mà, đời sống xoay vần cũng
hơn ba chục năm nay. Từ một con người
mơ mộng đi trên mây tôi đã phải
dậm chân trên đất mà đi.
Còn phải dậm thình thịch xem mình
có thật sự dẫm chân trên đất
bằng hay không nữa. Tôi cũng thích
làm họa sĩ lắm chứ, để tha
hồ vẽ những bức tranh hoa với mộng,
nhưng cuối cùng thì tôi chỉ làm được
một người thợ sơn vẽ tranh.
Bảo
Trân
|